1. Lời ngỏ
2. Thời thơ ấu
3. Cha tôi
4. Gia đình tôi
5. Thuở học trò
6. An bình ở Tuy Hòa
7. Cha tôi qua đời
8. Nạn lụt
9. Vào dòng lần thứ nhất
10. Về lại Đà Nẵng
11. Giặc Mậu Thân
12. Tổng tiến công đợt 2
13. Ra Quy Nhơn
14. Về lại Mỹ Tho
15. Gioan 23
16. Dòng Tên

17. Tú Tài IBM
18. Vào Đại học
19. 1975
20. Đi Kinh tế mới Ba Bèo
21. Gặp Vợ tôi
22. Làm công nhân
23. Lập gia đình
24. Làm lao động phổ thông
25. Làm Thư ký Đội
26. Vượt biên lần đầu
27. Chánh văn phòng
28. Vượt biên lần thứ nhì
29. Tủi nhục
30. Về Mỹ Tho mua bán giấy
31. Quay lại Bình Ba
32. Trưởng Ban VHTT

33. Vào Hợp tác xã
34. Gian khổ ở chợ
35. Vẽ truyện tranh
36. Thành công với nghề
37. Lên Ngãi Giao
38. Con vào Đại học
39. Mua nhà Sài Gòn
40. Thiết kế phông chữ
41. Lên chức sui gia
42. Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh
43. Lên Sài Gòn làm việc
44. Xuất cảnh đi Mỹ và quay về
45. Làm thiệp cưới
46. Nghỉ hưu
47. Kết
48. Thank you

Hồi ký của tôi

Thật sự thì đời tôi chẳng có gì đáng viết thành hồi ký, tuy nhiên, ngày nay Chúa đã ban cho tôi và cho gia đình tôi quá nhiều điều tốt đẹp, vả lại ngày nay tôi ôm khá nhiều căn bệnh trong người, không biết khi nào quay về với cát bụi, cho nên, nhận thấy cũng nên viết chút gì đó về cuộc đời mình, để vợ con tôi hoặc ai đó may ra đọc qua thì cũng hiểu đôi chút về tôi, về những gian truân khốn khó và về những thành đạt tất cả tôi đã đều nếm đủ, trong sự an bài của Thiên Chúa, con người ta phải trải qua những gập ghềnh trên đường đời mới có thể bước lên phía trước bằng con đường bằng phẳng hơn. Tôi không trách hoặc oán ghét số phận, mà tôi yêu mến nó, bởi vì tôi đã vượt qua được biết bao chông gai để có ngày hôm nay, an nhàn ngồi viết những dòng này ghi lại cuộc đời mình, một cuộc đời vất vả, đắng cay nhưng hạnh phúc. Và cũng vì những điều đó đan xen nhau rất chặt nên những đoạn đối thoại trong cuốn hồi ký này tôi không tách ra, mà tôi để liền mạch lại như một người kể chuyện, kể lại những mắt xích liền nhau của đời một con người. (TOP)

Thời thơ ấu

Những gì tôi có thể nhớ được thuở ấu thơ là từ ngày tôi học mẫu giáo, lúc ấy cha tôi còn khỏe chứ chưa ngã bệnh. Tôi cũng vừa được 4 tuổi, được cha tôi dắt ra trường gởi cho cô giáo tên là Cô Ý, đó là cô giáo đầu tiên của tôi. Gọi là trường chứ thực ra là cái kho làm bằng tôn cong hình bán nguyệt của người Pháp để lại đâu đó rồi dân họ đem về dựng lại trên nền cát lúc nào tôi không rõ, lúc tôi đến học thì có mươi bộ bàn ghế đặt trên cát để chúng tôi ngồi, học sinh thời ấy có đứa còn ở truồng đi học, cô giáo cũng chẳng nói gì vì dân đây nghèo lắm, mà mấy cái đứa ở truồng thì nó cũng quen rồi, chẳng mắc cỡ gì cả, vui chơi vô tư bên bọn con trai con gái lẫn lộn cũng chẳng hề gì, riêng tôi thì dù nhà nghèo nhưng cha mẹ tôi vẫn cho tôi ăn mặc tươm tất chứ chẳng phải như mấy đứa đó, tôi lại được sắm một chiếc cặp bằng mủ màu xanh vàng, có được một ngăn thôi, nhưng cũng thừa đủ chỗ để một cuốn vở và 2 cây bút chì, một bút chì đen có gôm và một bút chì hai đầu xanh đỏ.

Thời ấy chúng tôi học nhanh lắm, học trò đứa nào cũng thương yêu và kính trọng cô giáo. Mãi về sau tôi mới biết là hầu như chúng tôi ai nấy đều chăm học vì sợ cô giáo méc với cha mẹ thì ăn đòn, do đó mà cô nói gì nghe nấy, tuy nhiên, hình như tụi nó ham chơi hơn tôi hay sao ấy mà chúng học nhanh không bằng tôi, với lại đêm về lúc anh chị tôi học bài thì cha tôi cũng đem bài ra chỉ cho tôi, do đó mà sau khi học mẫu giáo 2 năm thì tôi đã biết đọc biết viết và biết làm toán cộng trừ hết ráo rồi, do vậy mà đến khi tựu trường năm học mới, năm mà tất cả chúng tôi đều vào học lớp Năm (tức là lớp Một bây giờ), tôi mới vào học có một ngày, chiều ấy tôi mang sách Tập Đọc ra khoe với cha tôi, cha tôi nhìn qua rồi ngạc nhiên bảo: Ơ…, như vậy thì mấy cái này thằng Hùng Lân nó học hết rồi, nó biết hết rồi, và sáng mai, cha tôi lại dắt tôi lên trường Nhật Lệ nằm ở trước mặt Nhà thờ Tam Tòa, xin Soeur Hiệu trưởng cho tôi vô học thẳng Lớp Tư (tức là lớp Hai bây giờ), soeur Hiệu trưởng kêu tôi lại cầm sách khảo một hồi thì tôi biết hết cả nên Soeur chấp nhận, do đó mà tôi học sớm hơn 1 tuổi, trong lớp toàn mấy đứa lớn con hơn tôi, vì bạn bè mẫu giáo của tôi nay học lớp Năm, đâu còn học chung với tôi nữa, nhưng riết rồi cũng quen, vì học trò thời ấy người ta thường nhận ra nhau qua cha mẹ, đứa này con ông Thu, đứa nọ con ông Chất thợ mộc, đứa kia con ông Lường, tôi thì con ông Thủy (Thủy là tên chị cả của tôi, thời ấy người ta hay kêu tên cha mẹ theo tên của người con cả), đứa khác thì con O Lành, vân vân và v.v…

Lớp Tư tôi học thì cuối năm chỉ đứng hạng ba hạng tư gì đó mà thôi, nhưng qua lớp Ba và Lớp Nhì thì tôi đứng đầu lớp, qua lớp Nhất (lớp Năm bây giờ) thì tôi đứng nhì lớp, bởi trong lớp có con bé tên là Kim Dâng nó học giỏi và chăm quá đi, tôi dù sao cũng là con trai nên cũng ham chơi như bạn bè nên không bằng nó. Tôi vẫn nhớ hồi học Lớp Nhì có bài tập đọc kể về một đứa học trò tên Lân, mà răng nó bị sún vì ham ăn kẹo và không chịu đánh răng, mở đầu bài bằng câu: Lân có bộ răng sún… thế là cả lớp nhìn tôi cười và chọc quê, mà lúc ấy răng tôi sún thật, cha tôi cột sợi chỉ vào chiếc răng lung lay của tôi rồi giả vờ nói chuyện gì đó bất ngờ giật mạnh một cái làm chiếc răng cửa rời ra, chẳng biết đau là gì, còn đánh răng thì thời ấy còn khổ lắm, mấy nhà được có bàn chải đánh răng? (quê tôi kêu bằng cái bót đánh răng), nhà tôi cũng như các nhà khác, chỉ lấy cái xác cau khô làm tưa cái đầu đi để cà răng thay cho bàn chải, tôi nhớ hình như là qua lớp Đệ Thất (tức lớp Sáu bây giờ) tôi mới được có cái bàn chải đánh răng thật sự, nhưng này, nếu biết dùng cái xác cau chà răng thì răng sẽ sạch và trắng hơn nhiều đấy chứ, có điều ngày đó làm biếng, chà qua loa cho nó xong chứ đâu có kỹ lưỡng làm gì… (TOP)

Cha tôi

Dấu ấn đẹp nhất và cũng nghiêm khắc nhất của anh chị em tôi đó là Cha tôi. Thời thơ ấu, vì anh tôi đi học Thiếu sinh quân ở Vũng Tàu nên tôi gần gũi cha tôi nhiều hơn, bởi năm 1962, tôi được cha tôi dắt theo đi máy bay vào Vũng Tàu thăm anh tôi đang học Thiếu sinh quân ở đó. Cha tôi liên hệ với bạn bè của cụ thời ấy xin cho được một chỗ trên máy bay quân sự bay từ Đà Nẵng vào Sài Gòn, không có ghế riêng, chỉ ngồi ghế băng dài hai bên thành máy bay cùng hàng hóa mà thôi, đấy là lần đầu tiên trong đời tôi đi máy bay, khi máy bay vừa bay lên được một lúc thì cha tôi đem ra một gói xôi mẹ tôi bới đem đi, ăn với chả lụa, thời ấy được thế là sang lắm chứ mấy khi tụi trẻ con như tôi được ăn chả lụa? Tôi vẫn còn nhớ khi vào Sài Gòn, hai cha con có đến ghé thăm cậu tôi là Đại tá Bùi Dzinh, tư lệnh Sư đoàn 9 Bộ binh tại khu nhà nào đó ở đầu đường Lê Văn Duyệt, bây giờ là CMT8, hình như đó là Nhà khách của Quân đội, bây giờ là CLB Lan Anh thì phải? Sau đó hai cha con đi xe đò ra thăm anh tôi ở Vũng Tàu. Đến nơi, cha tôi vào trình ở bót gác vừa xong thì cũng đúng lúc học sinh đi học về, thấy một đoàn học sinh đang đi thì bỗng một người chạy ra phía bót gác, thì ra đó là anh tôi nhận ra cha tôi vì ông cụ mặc áo the quần trắng và chiếc nón cối trắng, sau đó anh tôi có bị phạt vì tội bỏ hàng mà đi hay không thì tôi không biết, nhưng anh tôi được cha tôi xin phép cho đi ra ngoài một buổi chiều. Ba cha con ra thuê một chiếc xe ngựa mui trần, thời ấy Vũng Tàu còn có loại xe này, sau này thì tôi không thấy nữa, xe chở xuống chợ rồi vào trong tiệm, ăn mỗi người một dĩa cơm sườn, tôi chưa bao giờ thấy thứ gì trong đời ngon như miếng sườn nướng hôm ấy, bởi ở Tam Tòa quê tôi, ăn uống kham khổ lắm, một tháng may ra được ăn thịt heo một lần, mà kho mặn để ăn được lâu, còn bình thường thì ăn khuyết khô (một loại tép biển nhỏ phơi khô) lúc thì rang trộn nước mắm, lúc thì nấu canh, còn hên thì được ăn muối ruốc, nghĩa là muối kho với sả xắt nhỏ và ruốc, thêm ít đậu phụng hoặc tí thịt mỡ băm nhỏ, món này có thể để lâu ăn dần. Thế đấy, do vậy mà được ăn một miếng sườn nướng thì quả thật như đang làm vua ở một Vương quốc Ả Rập nào đó. Sau bữa ăn thì anh tôi phải về trường, anh tôi ôm cha tôi mà khóc dữ lắm nhưng cha tôi nghiêm mặt bảo quay về cố gắng học, rồi hai cha con tôi quay về, tôi nhớ lúc ấy cha tôi cũng khóc, nhưng cụ giấu nước mắt đi. Qua hôm sau cha con tôi thăm bà con đâu đó chừng một ngày rồi lên xe lửa về lại Đà Nẵng. Đó là lần đi xa đầu tiên trong đời mà tôi nhớ rất kỹ. Ký ức còn đọng lại trong tôi đó là cha tôi nếu có đi đâu thì ăn mặc rất tươm tất, ở nhà thì sao cũng được, áo may ô và quần pyjama, nhưng những lúc ra đường như lên trường học gặp Soeur Hiệu trưởng để xin cho tôi học vượt lớp, hoặc đi lễ nhà thờ, hoặc có vấn đề làm giấy tờ giúp cho ai đó phải ra trụ sở Khu Tam Tòa, hoặc cha tôi đi họp Hội Bác ái Vinh Sơn Đà Nẵng, thì lúc nào cha tôi cũng chỉnh tề áo sơmi quần tây thắt cà vạt, bên ngoài là cái áo gilê trùng với màu quần, chứ tôi chưa hề thấy cha tôi mặc veston bao giờ.

Trong Khu Tam Tòa là nơi định cư của vài nghìn dân từ quê Tam Tòa Tỉnh Đồng Hới di cư vào, nên còn gọi là Trại Định Cư Tam Tòa, số người có học vấn như cha tôi không nhiều, tôi chỉ nhớ là có Thầy Giải là học rất cao, thầy tên thật là Bùi Văn Giải, thầy học rộng biết nhiều và là một Trưởng Hướng Đạo, năm 1966 bầu Thượng Nghị Viện tại miền Nam, thầy đứng chung liên danh Bông Huệ của cụ Nguyễn Văn Huyền và thầy đắc cử Thượng Nghị Sĩ VNCH. Lần đầu tiên ở một Khu định cư mà có người đắc cử vào Thượng viện, còn ông Nguyễn Phong làm Khu trưởng Tam Tòa thì trình độ cũng ngang ngang với cha tôi, thỉnh thoảng có chuyện gì quan trọng cần bàn bạc lấy ý kiến thì ông đến gặp cha tôi, hai người nói chuyện đắc ý lắm.

Thời trước khi di cư 1954, cha tôi là một trong hai người đầu tiên của làng Xuân Hòa Huyện Lệ Thủy Quảng Bình đậu Première, người thứ nhì là O Giáo, chị chú bác ruột của cha tôi, do đó nói về trình độ và học thức thì cha tôi cũng rất có thế giá trong xã hội bấy giờ. Có điều bên nội tôi độc đinh, ông Câm của tôi sinh ra được hai người con trai là ông cố nội tôi và một ông cố khác, hai ông cố này lại thành hôn với hai chị em ruột khác, thành ra dòng giống sinh ra cùng một máu mủ cả cha lẫn mẹ, có điều ông cố nội tôi chỉ sinh ra có một mình ông nội tôi, và ông nội tôi cũng chỉ sinh ra một mình cha tôi mà chẳng có thêm ai khác. Ông nội tôi là bần cố nông nên nghèo lắm, phải gởi cha tôi sang bên nhà bác là Ông Đội, tên tộc là Nguyễn Duy Hàng, để ông bác giúp cho cha tôi học tập nên người, nhờ vậy mà văn hóa cha tôi có cao hơn những người khác, lúc cha tôi về làm rể bên nhà ông ngoại tôi, các rể khác thì phải ra đồng đi cày, còn cha tôi thì lại dạy cho các cậu học hành nên nhàn hơn.

Sau khi đậu Première, cha tôi đỗ vào Sở Kiểm Lâm Đồng Hới và làm Đội trưởng Kiểm Lâm, bấy giờ nhà ông nội tôi mới đỡ khổ. Cha tôi lập gia đình không lâu thì Việt Minh nắm quyền, họ bắt cha tôi lên rừng cải tạo, bao nhiêu người chết vì sốt rét và bị thủ tiêu trong rừng, cha tôi may mắn sống sót vì ông nội tôi thuộc giai cấp bần cố nông nên họ tha cho về với một hình hài ốm yếu và bệnh hoạn, sau đó Việt Minh rút đi, cha tôi lại tiếp tục làm Kiểm Lâm như cũ. Ngoài giờ làm ra, cha tôi làm Thông ngôn vì cha tôi rất giỏi tiếng Pháp, có làm thông ngôn, cha tôi được quen biết nhiều và có những mối hàng giúp mẹ tôi buôn đi bán lại nên gia đình tôi lúc ấy khá giả lắm.

Bấy giờ cha tôi quyết định xây nhà tại Đồng Hới, cụ làm nhà kiên cố lắm vì miền Trung gió bão lụt lội hàng năm ghê lắm, ai cũng mong muốn có một mái nhà vững chắc, Quảng Bình quê tôi hiện nay cũng vậy, ăn uống kham khổ cách mấy cũng được, dồn tiền lại để xây nhà phòng khi mưa bão, do đó mà cha tôi làm nhà nền cao gần một mét, có tam cấp đi lên đàng hoàng, nghe mẹ tôi kể lại thì nhà xây lớn lắm, nhà lợp ngói toàn bộ, cửa sổ làm bằng gỗ bên ngoài còn có thêm cửa kiếng lớp thứ hai nữa. Đấy là vào thời điểm nửa đầu năm 1954, sau trận Điện Biên Phủ thì cha tôi lỡ xây nhà rồi, lúc hai bên đang bàn bạc Hiệp định Genève thì nhà cha tôi xây gần xong, lúc đó bao nhiêu tiền của đã đổ vào ngôi nhà nên cha tôi chỉ mong hai bên ký hiệp định phân đôi vào vĩ tuyến 18 tức lằn ranh trên Quảng Bình thì nhà tôi vẫn còn đó, vì cha tôi đã nếm mùi của Việt Minh rồi nên cụ nhất quyết không theo họ, mà theo phe Quốc gia thôi, trong thời gian ấy mọi người đều phập phồng chờ đợi, lúc thì nghe bên Việt Minh đòi vĩ tuyến 16, lúc thì nghe bên Quốc gia đòi vĩ tuyến 18, rốt cuộc lại khi hiệp định Genève ký phân đôi ở vĩ tuyến 17 tức lằn ranh giữa Quảng Trị và Quảng Bình, nghe vậy cha tôi thất vọng lắm, cụ nhất quyết di cư vào miền Nam cho dù ngôi nhà mới xây ở chẳng được bao lâu, ra đi cũng chẳng biết bán cho ai vì cả làng Tam Tòa và dân Đồng Hới đều kéo nhau đi cả, ngôi nhà coi như bỏ, bao nhiêu tiền bạc đổ vào ngôi nhà coi như mất sạch. Cha mẹ và ông nội tôi cùng 3 đứa con di cư vào Nam với đôi bàn tay trắng.

Vào Đà Nẵng được chính quyền cấp cho miếng đất và vật dụng xi măng tôn các thứ, cha tôi dựng lại nhà ở Khu phố Tam Tòa, hầu như đồng hương Tam Tòa Đồng Hới về đấy cả, sau khi ổn định thì cha tôi phải đi đăng lính để có lương mà sống, cụ thi tuyển đậu vào trường sĩ quan, tôi còn nhớ nhà có tấm hình cụ chụp chung với 3 người khác khi vào trường, trong đó có một người sau này làm tướng tư lệnh sư đoàn 1 tên là Vũ Văn Giai thì phải, nhưng số phận lại trớ trêu khi vừa vào trường sĩ quan học chẳng bao lâu thì cha tôi bị bệnh lao, hậu quả của thời kiểm lâm trước đây, cụ bị bắt lên rừng hồi Việt Minh cải tạo và có lẽ thức đêm đánh chắn và tổ tôm nhiều quá, do đó mà trường phải cho cụ nghỉ học, xuống làm trung sĩ rồi lên Thượng sĩ ngành Công Binh, thời gian này cụ trở bệnh nặng nên chỉ sau mấy năm cụ phải giải ngũ để hưởng lương hưu, tàn phế nặng 100% vì Việt Nam mình thời ấy đâu đã có thuốc chữa bệnh lao. Và thế là bắt đầu một chuỗi ngày dài chống chọi với bệnh tật. (TOP)

Gia đình tôi

Tôi còn nhớ rất rõ những tháng năm gian khổ lao đao ấy, những điều tôi nhìn thấy và những điều tôi nghe kể lại. Khi di cư vào Nam, ông nội tôi còn sống, ông thương anh tôi lắm, lúc bấy giờ tôi chưa sinh ra, cha mẹ tôi chỉ mới có ba đứa con, chị Thủy là chị đầu, rồi đến anh Sơn, đến chị Lan. Vì gia đình tôi thuộc dạng độc đinh nên ông tôi cưng chiều anh tôi lắm lúc quá đáng, nhưng anh tôi lại hay bệnh, có trận bệnh thương hàn, thậm chí phải uống cứt gà sáp mới khỏi, nghe đâu đó là một vị thuốc Bắc mềm như sáp và hôi như cứt gà, cũng nhờ thế mà anh tôi qua được, nỗi lo âu lại đến với ông nội tôi vì ông sợ không có người nối dõi dòng Nguyễn Tử của tôi, mặc dù đến đời cha tôi, cụ đã bỏ chữ lót Tử và thay bằng một cái tên lót khác cho mỗi đứa chúng tôi để mong thoát cảnh độc đinh, cha tôi cũng lo âu không kém, vì anh tôi bệnh hoài, sợ có ngày không qua khỏi, cha mẹ tôi hàng năm đều đóng cửa nhà, dắt con cái ra Quảng Trị đi kiệu Đức Mẹ La Vang để xin thêm một thằng con nữa, và thằng con đó chính là tôi.

Định cư được một năm thì ông nội tôi lâm bạo bệnh qua đời, gia đình độc đinh nên đâu có họ hàng gì, chỉ có vợ chồng con cái lo cho ông thôi, lúc ấy cha tôi vẫn còn chưa giải ngũ nên đời sống cũng tạm đủ, mẹ tôi ở nhà mua sắn về lột vỏ, nạo ra rồi vắt nước lọc lại làm thành bột mì đem ra chợ bán, xác thì nuôi heo, cuộc sống cứ thế mà trôi đi.

Sau khi tôi ra đời thì cha tôi còn tại ngũ thêm 4 năm nữa mới nghỉ, thời đó tôi còn nhỏ nên không nhớ gì nhiều, chỉ nhớ những lần Tết đến thì nhà tôi gói bánh đòn, trong Nam kêu là bánh tét, làm mứt gừng và làm bánh in. Bánh đòn là món mà ngày Tết quê tôi hầu như nhà nào cũng có, bởi cái không khí đón Tết bằng nồi bánh đỏ lửa xuyên đêm nó tạo không khí rạo rực vui đón xuân về, và trong những ngày Tết không ai sợ phải đói bụng, lúc nào cũng có thể cắt bánh ra ăn. Quê tôi không cắt bánh bằng dao mà bằng lạt, sợi lạt tre dùng để cột bánh ấy mà, mở lá gói ra, rồi răng ngậm một đầu sợi lạt, cuốn vòng qua đòn bánh rồi miết thẳng, đòn bánh đã được cắt ra từng khoanh rất đẹp, ăn không hết thì dành lại đem chiên lên chấm với nước mắm ớt khô, quả là ngon cực kỳ.

Vì sao mà quê tôi hầu như ai cũng làm mứt gừng và bánh in? Mãi sau này tôi mới biết là cũng vì cái cực mà ra. Dân quê tôi có tính tằn tiện, và hầu như cái máu ấy đã thấm sâu vào trong người, những người dân vất vả một nắng hai sương, quanh năm chống chọi với lũ lụt, do đó cái miếng ăn cũng rất quý trọng, không phung phí chút nào mà có lỗi với trời đất. Cũng vì thế mà ngoài bánh đòn ra, mứt gừng và bánh in nhà nào cũng làm, làm bởi vì những thứ ấy không ăn nhiều được, chỉ nhấm nháp chút ít là đủ, không phải phung phí như về sau này. Ngoài ra, nhà nào khấm khá hơn tí chút thì đổ thêm bánh thuẫn, miền Nam gọi là bánh bông lan, nhưng bánh thuẫn quê tôi cũng vì cái nghèo mà để bột vào hơi nhiều, làm xong thì đem phơi cho khô để dành ăn được lâu, do đó mà cũng không ăn nhiều được, chỉ đôi ba cái là no ứ. Thương là thương chỗ đó. (TOP)

Thuở học trò

Năm 1961, như tôi đã kể, tôi được học vượt lớp vì qua Mẫu giáo, tôi đã biết đọc biết viết cộng trừ nhân chia mọi thứ nên cha tôi xin cho tôi vào thẳng Lớp Tư (tức lớp Hai bây giờ). Kể từ ngày Cha tôi bệnh, gia đình tôi lâm vào cảnh túng quẫn triền miên. Tôi còn nhỏ nên không biết gì nhiều, chỉ thỉnh thoảng nghe cha mẹ tôi phải lo trả nợ người này người kia thấy mà xót, bởi sau khi giải ngũ, cha tôi chỉ có lương hưu, và với một gia đình đông con như thế thì khó mà tránh phải nợ, mặc dù lương hưu của cha tôi khá cao, bởi sau này tôi xem trong hồ sơ thì cha tôi được phân loại là Tàn phế binh 100%, như một người đã qua đời, vì cha tôi bị bệnh Lao phổi rất nặng. Thời nay Lao phổi có thể chữa trị được chứ thời ấy thì thua, bởi bệnh hoạn như thế nên gia đình tôi khánh kiệt dần, đó là điều khó tránh khỏi.

Thời ấy thì gia đình tôi nghèo lắm, tiền bạc trong nhà lo việc thang thuốc cho cha tôi cả nên lâm cảnh túng quẫn triền miên, ngoài giờ học ra thì chúng tôi phải cạo sắn, nghĩa là cạo cái vỏ khoai mì đi cho nó sạch đem ngâm nước cho mềm và giòn, mẹ tôi và chị cả mài trên cái bàn mài thành một hỗn hợp mì xay nhuyễn hòa chung với nước, sau đó lấy vải bọc lại vắt ra để lấy hết nước tinh bột, xác nấu lên nuôi heo, còn nước tinh bột ấy để lắng lại thành bột, gạn ra lấy từng miếng bột đem phơi, sau khi khô thì thành bột mì đem ra chợ bán, bột này dùng làm bánh bột lọc. Thường thì vài ngày mẹ và chị tôi phải gánh xuống Chợ Cồn bán, lần nào bán xong thì chúng tôi cũng có một chút quà, và nhất là thế nào mẹ tôi cũng mua một mớ tôm to về lột vỏ kho nước cho cha tôi, vì cha tôi thích món này lắm, chúng tôi biết cha tôi bệnh nặng thế nên cũng chẳng đòi, tuy vậy, mỗi lần ăn, cha tôi cũng vẫn thường chia ra cho mỗi đứa một con.

Những ngày cha tôi khỏe thì cũng ra ngồi cạo sắn chung với chúng tôi, nhà tôi thường đặt mua hàng chục gánh của những người nông dân ở Quảng Nam mang đến đổ thành một đống lớn ở sân sau nhà, chị em tôi thường chia phần ra mỗi đứa một đống, cạo xong mới được đi chơi. Đám con trai tụi tôi thì chơi đủ trò như bắn bi, đánh cù (trong miền Nam gọi là chơi khăng) cùng bao thứ khác như tạt lon, tạt dép, nhảy lò cò, thậm chí có đứa kiếm được mấy viên bi sắt cũ của ai đó đem đến chơi bi sắt nữa, mãi về sau này tôi mới biết bi sắt cũng là một môn thể thao, con gái như chị tôi thì chơi búng thun, banh thẻ, phải kiếm nhà ai có cái nền xi măng thì mới chơi banh thẻ được, mỗi lần ai đó cho trái banh tennis cũ mèm hết đánh được thì các chị ấy quý như vàng, đem chơi banh thẻ, với lại rõ ràng trò chơi này rất cần sự khéo tay linh hoạt lắm mới được, tôi thì chịu, thử vài lần nhưng không được, còn trò chơi búng thun thì tụi con trai cũng có chơi, nghĩa là mỗi đứa một bên, búng sợi thun lại gần nhau, đứa nào búng chồng lên thun của đứa kia thì thắng, ăn luôn sợi thun ấy, mà quả thật, chơi búng thun ở quê tôi rất sướng vì búng trên nền đất, lại là đất cát ươn ướt nữa nên có thể nhấn ngón tay búng nông sâu theo ý mình để thun bay xa gần theo ý muốn, chứ sau này thử chơi búng thun trên nền xi măng cứng ngắc thấy chán lắm, không nhấn ngón tay sâu được. Bọn con gái học cùng lớp với tôi ở trường cũng chơi búng thun và banh thẻ tài lắm, mỗi lần giờ ra chơi thật là náo nhiệt, mấy đứa con nhà khá giả thì chạy ra hàng rào mua đồ ăn vặt như cóc, ổi, kẹo vừng, cà rem… còn đám chúng tôi thì chỉ biết chơi lò cò hoặc bắn bi một lúc rồi vào học lại thôi.

Tuy sống trong cảnh cơ hàn như thế nhưng cha mẹ tôi cũng rất thương con, chẳng biết tiền bạc dành dụm đâu mà thỉnh thoảng vào buổi tối nghe tiếng bánh mì nóng rao ngoài ngõ là cha tôi kêu lại mua cho mỗi đứa một ổ để ăn vặt, có những lúc kẹt tiền thì hai đứa mới được một ổ thôi, chúng tôi còn nhỏ nên đâu biết những lúc đó gia đình khó khăn lắm, ổ bánh được lấy dao cắt ra làm hai, và những đứa nhỏ được lựa phần nhiều hơn, cầm lên so qua so lại một hồi mới lấy, sau này cha tôi lấy dao cắt xéo ổ bánh nên ai nấy cũng thấy ổ bánh mình dài là yên.

Những lúc cha tôi khỏe thì mỗi sáng Chúa nhật, cha tôi mặc đồ đàng hoàng dắt tôi đi lễ nhà thờ, đồ đàng hoàng đây là áo sơ mi bỏ vô quần và ngoài khoác cái áo gilê, những trang phục này là do cha tôi làm việc ngày xưa nên mới có, chứ dân quanh vùng thì áo sơ mi quần tây là oách lắm rồi, trong xóm chỉ có nhà ông Lường và bọ Thu của tôi (trong Nam kêu là Bõ đỡ đầu) là tương đối khá giả, đi lễ bỏ áo vào quần như cha tôi, chứ mấy người khác thì áo bỏ ngoài quần cả thôi, sau này tôi mới biết là hình như họ không có sợi dây nịt nên mới vậy. Hàng tháng thì cha tôi ăn mặc tươm tất lắm, có thắt cái cà vạt nữa, đến họp ở Hội Bác Ái Vinh Sơn đâu ở dưới gần Bến Bạch Đằng, những lần khác thì cụ mặc áo dài the màu đen, quần lĩnh trắng, đội cái nón cối màu trắng, sau này tôi mới thấy cái hình vẽ bìa trong truyện Tuấn Chàng Trai Nước Việt của Nguyễn Vỹ là ăn mặc đúng y như cha tôi ngày xưa, có lúc cha tôi đưa tôi đi theo, còn những lúc khác thì cha tôi đi một mình.

Hằng ngày, mỗi sáng nghe chuông nhất nhà thờ là cha tôi kêu chúng tôi dậy để đi lễ, vì cha tôi bệnh nặng nên không đi lễ hàng ngày được. Chị em tôi nhăn nhó cho lắm rồi cũng phải đi, chỉ có chị cả tôi, chị kế tôi và tôi đi thôi, em gái tôi còn nhỏ thì ở nhà, anh trai tôi thì lúc đó đã được gởi đi học trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu rồi nên chỉ có ba người đi, một thằng oắt con năm sáu tuổi như tôi thì biết gì chứ? Nhưng cũng phải đi cho quen, nhà thờ lúc ấy vẫn còn làm lễ bằng tiếng La Tinh, lâu lâu nghe Cha ở trên bàn thờ xướng Dominus vo biscum thì mình đáp Étcum xpiritus tuum gì đó thôi, rồi Ngài lại Orémus gì gì đó đến khi ngài ngưng thì mình Amen là xong. Thời ấy, linh mục làm lễ còn quay mặt vào Thánh giá, quay lưng về phía giáo dân chứ không phải như bây giờ. (TOP)

An bình ở Tuy Hòa

Năm 1962, sau khi cha tôi và tôi đi vào Nam thăm anh tôi học ở trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu về, cụ bệnh mất mấy tháng vì nhớ anh tôi, chiều chiều hay ra đứng trước sân nhà nhìn lên bầu trời, thấy chiếc máy bay nào bay ngang là rưng rưng nước mắt, biết là chia cắt rất đau lòng nhưng phải chấp nhận như thế để mong anh tôi được học hành tử tế. Những ngày sau đó thì cha tôi khỏe lại, tôi thấy cụ thường lấy sách vở bằng tiếng Pháp ra ôn lại, rồi đến một ngày nọ, khi đi học về, tôi thấy cha tôi vui lắm, bảo rằng gia đình sắp được đổi đời, bởi sau khi giải ngũ rồi nằm mấy năm trên giường bệnh, nay cha tôi đã thi đậu vào một ngạch nào đó ở Trường Hành Chánh, nghe đâu là phải làm thêm một bài luận văn bằng tiếng Pháp, mặc dù lúc đó đã 40 tuổi và bệnh hoạn nhiều năm, nhưng cha tôi vẫn đậu, cụ được điều về làm cán sự gì đó ở Tòa Hành Chánh tỉnh Tuy Hòa, như vậy là gia đình tôi đỡ phải làm nghề bột sắn cực khổ nữa, và thế là vào mùa hè năm 1963, cha tôi cho người ta thuê nhà rồi đưa cả gia đình vào Tuy Hòa, nhà tôi gần ga Xe Lửa Đà Nẵng nên cũng tiện, gia đình tôi dọn đồ đạc ra ga xe lửa rồi đi thẳng vào ga Tuy Hòa, đến nơi, gia đình tôi thuê lại một căn phòng của chú Giao, cũng là người bà con cùng họ với cha tôi, tuy họ xa nhưng cũng thuộc dòng Nguyễn Tử như cha tôi, chú làm cảnh sát và có mấy căn nhà cho thuê, một trong những căn đó ngoài gia đình tôi ra còn có gia đình cậu Minh mợ Vân là em ruột cùng cha khác mẹ với mẹ tôi, bởi ngày xưa lúc bà ngoại sinh ra mẹ tôi được chẳng bao lâu thì lâm bạo bệnh qua đời, ông ngoại tôi phải đi thêm bước nữa nên bên ngoại tôi tính cả hai đời thì rất đông. 

Nhà tôi quay mặt ra đường, phía bên kia đường là Núi Nhạn, cuộc sống gia đình tôi dần dần ổn định, hàng ngày cha tôi đón xe lam đi làm, chiều mới về, còn tôi và chị kế tôi xin vào học trường Đặng Đức Tuấn, ngay cạnh Nhà Thờ Chính Tòa Tuy Hòa. Hơn 50 năm sau tôi có ghé về lại Tuy Hòa thăm và vẫn nhớ đường sá như ngày nào, tuy rằng giờ đây lộng lẫy hơn và xây dựng nhiều hơn. Hàng ngày chị em tôi đi học, chị tôi học Lớp Nhì, tôi học lớp Ba, hai chị em tôi thường được mẹ tôi cho một đồng năm cắc Ba Cô bằng nhôm, mua được một cái bánh tráng hoặc hai chén chè, còn kẹo gừng thì năm cắc mua được cả bịch, chia ra mà ăn, đồng bạc hồi đó lớn lắm, tết nhất thường mỗi đứa chỉ được lì xì một đồng thôi là mừng rồi. Tôi không biết lương cha tôi là bao nhiêu, nhưng nhà tôi có sắm bàn ghế giường tủ, có một chiếc radio, chị em tôi thì được mua mỗi người một chiếc cặp bằng da bò thiệt đẹp lắm.

Và thế là thời gian cứ qua, cứ mỗi chiều nghe tiếng xe lam nổ bình bịch từ xa là biết cha tôi đi làm về. Tuổi nhỏ nên chúng tôi hay nghịch và biếng nhác, nhưng biết tính cha tôi rất nghiêm khắc nên chị em chúng tôi ai cũng sợ, nhờ vậy mà chúng tôi rất ngoan. Năm ấy tôi theo học Lớp Giáo Lý rồi được xưng tội rước lễ lần đầu ngay tại Tuy Hòa. Tôi còn nhớ là đúng ngày tôi được Rước Lễ lần đầu thì đúng dịp Đức Cha Hoàng Văn Đoàn là Giám Mục Địa Phận Quy Nhơn vào thăm nên Đức Cha chủ tế Thánh lễ luôn. Đức Cha có bộ râu quai nón rất đẹp nên tôi nhớ mãi. Hôm đó cả gia đình tôi đều đi dự lễ và chụp hình đẹp lắm, tôi mặc bộ đồ trắng có thắt cái nơ trắng lớn nơi tay phải, sau đó thì anh tôi được nghỉ hè về nhà, cha tôi bảo cả gia đình tôi lại đi chụp hình, tôi lại diện bộ đồ trắng y như vậy, anh tôi thì mặc bộ đồ trắng của Thiếu Sinh Quân, cha tôi hãnh diện lắm, có điều lúc chụp hình, vì mẹ tôi thấp hơn cha tôi nhiều nên thợ chụp hình phải kê lên nguyên một viên gạch tableau lớn cho mẹ tôi đứng lên thì nhìn mới cân với cha tôi. Nghỉ hè xong thì anh tôi lại phải đi tàu lửa trở vào trường Thiếu Sinh Quân học nên cha tôi buồn lắm, nhưng đành phải chịu vì tương lai con cái.

Tôi còn nhớ một trưa nọ, sau khi nhận được điện tín báo trước thì có cậu tôi là Đại tá Bùi Dzinh vào thăm cha mẹ tôi. Nguyên một đoàn xe jeep bốn năm chiếc chở cậu tôi và cận vệ đến thăm làm hàng xóm vô cùng ngạc nhiên, tưởng cha tôi chắc là cấp gì lớn lắm nên có một đoàn tùy tùng như vậy, chẳng qua là vì cậu tôi rất thương mẹ tôi và rất quý trọng cha tôi vì ngày xưa cha tôi đậu Première trước cậu tôi một hai khóa gì đó, trong họ ngoại tôi chỉ có cha tôi là con rể và cậu tôi là đậu thôi, do đó mà cậu tôi rất nể cha tôi, lúc đó cậu làm Tư lệnh Sư đoàn 9 và nhân chuyến công tác gì đó tại Quy Nhơn nên tiện đường vào Tuy Hòa thăm cha tôi. Cậu tôi bảo tùy tùng lấy cái máy chụp hình ra và chụp chung với cha tôi một pô hình bằng máy chụp hình lấy liền đen trắng, sau đó tặng lại cha tôi và sau khi cha tôi mất thì không biết nó thất lạc ở đâu nữa. Đó là lần đầu tiên tôi biết cái máy chụp hình lấy liền là gì, chụp xong chỉ cần mấy giây, xé niêm cái rẹt là tấm hình lòi ra, tôi đứng gần nên trông thấy hết.

Cũng như cha tôi, cậu tôi rất quý trọng Tổng thống Ngô Đình Diệm đương chức bấy giờ, một phần Cụ Diệm cũng là người cùng Huyện Lệ Thủy Quảng Bình như gia đình dòng họ tôi, một phần cậu tôi được ăn học và đi du học nên cậu tôi rất muốn làm chính trị, do đó mà về sau, bao nỗi oan khiên gai góc cậu tôi và cha tôi phải gánh chịu vì thân thiết và trung thành với Ngô Tổng Thống. Quốc khánh 26/10 năm đó tại Tuy Hòa có duyệt binh và chúng tôi nô nức đi xem, nô nức là bởi vì trong đoàn diễu hành có cả cha tôi đi theo khối Tòa Hành chánh Tỉnh. Sáng hôm ấy dân chúng đến rất sớm và đứng ở hai bên trục lộ chính, tôi và chị tôi cũng chen vào và thấy cha tôi dáng người vẫn còn khỏe khoắn đi trong đoàn diễu hành, khi đoàn đi qua rồi chúng tôi mới quay về, lòng cũng phơi phới hãnh diện vì có cha mình ở trong đó.

Nhưng niềm vui ấy cũng chẳng được bao lâu vì chỉ chưa tới 1 tuần sau, đảo chánh nổ ra bắt đầu từ Sài Gòn ngày 01/11/1963 và qua ngày hôm sau, Hội đồng Quân nhân Cách mạng do tướng Dương Văn Minh cầm đầu đã chủ trương giết Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu ngay trong lòng xe thiết giáp, những chuyện này lịch sử nói nhiều nên tôi không kể ra làm gì. Ở Tuy Hòa, cha tôi nghe đài nên hay tin, sức khỏe cụ suy sụp nhanh chóng vì cha tôi hết lòng ủng hộ Cụ Ngô Đình Diệm từ ngày di cư vào Nam nên nghe tin vậy thì rất lo âu cho tình hình nước nhà. Nghe đâu cậu tôi Tư lệnh Sư đoàn 9 bị kẹt ở Vĩnh Long nên không về giải cứu cho Cụ Diệm được, cậu tôi cũng rất uất ức và buồn chán, nghe đâu sau này cậu có cùng vài người khác nữa làm đảo chánh chống lại phe Quân nhân nhưng bất thành.

Đảo chánh 01/11/1963 đã làm cục diện thay đổi, ngay trong Tòa Hành chánh Tuy Hòa, người ta bắt đầu chia rẽ, nghi ngại lẫn nhau. Vì họ biết cha tôi là người trung thành với Cụ Diệm nên tỏ ra ghen tức và trù ếm, và quả thực qua năm 1964, sau Tết Giáp Thìn thì họ điều chuyển cha tôi lên làm việc ở Sơn Hòa là một huyện miền núi, lúc ấy mẹ tôi đang có bầu em tôi nhưng cũng đành phải chịu cảnh gia đình chia ra hai nơi, thỉnh thoảng mẹ tôi phải làm thức ăn bới lên cho cha tôi, còn chúng tôi thì vẫn cứ đi học bình thường, đâu biết rằng gia đình tôi đang lâm vào hoàn cảnh cam go như thế. Tôi không biết Sơn Hòa ở đâu, sau này nghe kể lại lúc đó chỉ là một huyện mới lập, nơi rừng thiêng nước độc, cha tôi lại gốc bệnh lao chưa khỏi nên chẳng trụ được bao lâu nữa, những cơn sốt rét rừng đã hành hạ cơ thể cha tôi mau chóng đến độ cụ không chịu nổi, đành phải xin nghỉ việc và vào mùa hè năm đó, cha tôi đành dắt díu gia đình quay lại Trại định cư Tam Tòa, là nơi nhà cũ của gia đình tôi trước kia, cuộc sống êm đềm ở Tuy Hòa chỉ được đúng một năm, đâu lại vào đấy. Biến cố 01/11/63 lại càng làm sức khỏe cha tôi suy sụp nhanh hơn, lại phải nằm trên giường bệnh, và chúng tôi lại vẫn công việc cạo sắn làm bột như xưa. (TOP)

Cha tôi qua đời

Sự sụp đổ nền Đệ nhất Cộng hòa đã làm cha tôi không còn trông mong gì đến tự do dân chủ nữa, tâm thần bất an nên bệnh ngày một nặng thêm, cha tôi phải chuyển vào Quân Y viện Duy Tân Đà Nẵng, bị thổ huyết nhiều nên sức khỏe cha tôi suy giảm trầm trọng, trong thời gian ấy mẹ tôi lại mang thai nên việc thăm nom đôi lúc tôi và chị tôi phải đi, có lần tôi vào thăm, cha tôi chưa kịp giấu thì tôi và chị tôi đã nhìn thấy cái hộp thiếc dưới giường cha tôi đầy những máu. Chị cả tôi và tôi khóc quá chừng, và rồi cha tôi lại được về nhà, rồi sau đó lại nhập viện, đi đi lại lại đến mấy lần trong khoảng thời gian ấy, tiền bạc bao nhiêu cũng không đủ nên mẹ tôi mang công mắc nợ nhiều hơn, trong thời gian này thì mẹ tôi sinh ra được một em trai, cha tôi mừng lắm nhưng cũng chẳng được bao lâu lại trở bệnh. Những lần trở bệnh tưởng như sắp đứt, cha tôi phải xức dầu không biết bao nhiêu lần, và trong những ngày gian khổ ấy, cha tôi thường ngồi kể lể kêu van những người ruột thịt của nhà tôi, vì tình gia đình dòng tộc trong cha tôi nặng lắm, cha tôi là độc đinh nên rất trân quý những bà con một cách rất thiêng liêng, tuy chưa phải là ruột thịt như O Cúc, O Đào của tôi, song cha tôi cũng xem đó không khác gì là ruột thịt cả, cụ ngồi trách móc sao giờ này em sắp chết đến nơi mà không thấy các chị đến? Than thở một lúc rồi cũng thôi vì cơn ho lại kéo đến.

Qua năm 1965, sức khỏe cha tôi đã suy yếu nhiều, tuy nhiên cứ mỗi độ xuân về, cha tôi lại hay làm một đôi câu thơ gì đó để nhớ. Năm ấy cha tôi viết rằng:

Rồng đi để lại trời đen tối,
Rước rắn về đây lại chết thôi.

Chẳng biết đó có phải là một lời tiên tri hay không mà năm Giáp Thìn ấy miền Trung vừa qua trận lụt dữ dội và năm Ất Tỵ ấy cũng là năm định mệnh của cha tôi, cha tôi biết rằng, căn bệnh lao phổi cụ đang mang là bệnh lây nhiễm dữ dội lắm, cho nên thời gian này cha tôi không tiếp xúc với chúng tôi mà nằm ở một gian riêng cạnh cửa sổ, lúc nào cũng mở cửa cho thoáng khí, ăn uống cũng riêng biệt vì sợ lây cho vợ con. Một ngày nọ vào đầu năm 1965, không biết cụ tìm đâu ra một tờ báo, trong đó có tin và có tấm hình của cậu Bùi Dzinh của tôi, bảo rằng cậu Dzinh cùng vài người khác làm cuộc đảo chánh 19/02 và đã thất bại, bị Tòa án Quân sự kết án tử hình. Cha tôi đọc tin xong thì bàng hoàng rồi đổ bệnh nặng thêm. Sau này theo tôi biết được thì bản án ấy về sau được giảm thành chung thân, rồi lại giảm còn có mấy năm thôi, nhưng lúc đó thì cha tôi thấy tình hình đau buồn quá, sức khỏe suy sụp nhanh chóng và kể từ đó, cha tôi nằm liệt giường, mẹ tôi phải lên nhờ Cha Hiển của Giáo xứ Tam Tòa đến cho xưng tội và xức dầu thêm lần nữa.

Thời gian này tôi đang học lớp Nhì và vì cũng chỉ là trẻ con nên đâu biết giông tố sắp đổ ập lên gia đình mình? Đi học về rồi đi chơi, phụ cạo sắn như mọi lần, cuối tuần thì sinh hoạt Thiếu nhi Thánh thể ở nhà thờ, nào là cắm trại, nào là văn nghệ, chiếu phim thôi thì đủ cả. Tôi nhớ là thời ấy xem được hai bộ phim, một là phim Áo Dòng Đẫm Máu kể về Thánh Tử đạo Phillipphê Minh, hồi đó chỉ biết Cha Minh Cha Lựu thôi chứ chưa rõ tên thánh của các ngài, hai là phim Chúng Tôi Muốn Sống kể về cuộc cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc, mỗi lần chiếu phim là sân trường trước cổng nhà thờ đầy nghẹt người, già trẻ lớn bé đều đủ cả. Dân Tam Tòa chúng tôi có tinh thần cộng đồng rất cao, hầu như ai nấy đều quen biết nhau nên rất đoàn kết và rất mộ đạo, hầu như 99% là dân công giáo chứ chẳng có ai bên ngoài lọt vào, vì thế cho nên chuyện gì ai cũng biết, nhà nào bị cháy, nhà nào đánh bạc, nhà nào cãi nhau hầu như ai cũng biết cả, và cha sở xem như một vị cha chung có thể hóa giải mọi chuyện. Thời gian ấy thì cha Hiển đổi đi xứ khác và cha Hồ về nhận xứ, thường thì hằng năm, giáo xứ có làm tuần đại phúc và mời các cha Dòng Chúa Cứu Thế về giảng tĩnh tâm, tôi vẫn còn nhớ cha Thặng và cha Thừa giảng rất hay, cha Trần Hữu Thanh cũng đã có lần về đây giảng tĩnh tâm rồi, mỗi lần như vậy thì giáo dân tham gia rất nhiệt tình và rất đông.

Tháng 6 năm ấy, bệnh tình cha tôi càng ngày càng nặng hơn, cha tôi biết không qua khỏi nên kêu mẹ tôi đến, lấy hồ sơ bệnh tật lương hưu của cha tôi ra rồi hướng dẫn cho mẹ tôi biết, nếu cha tôi không qua khỏi thì mẹ tôi cần lấy giấy tờ nào, đi gặp ai, ở đâu, để làm giấy tờ Tử tuất, sau này được hưởng tiền tử tuất như các Cô nhi quả phụ khác, vì cha tôi là Tàn phế binh 100% nên được hưởng tử tuất không khác gì những người lính chết trận, và chúng tôi vẫn được gọi là Quốc gia Nghĩa tử, hưởng quy chế như những người con có cha chết trận khác. Những ngày đó gia đình tôi u buồn lắm, bởi trong nhà nợ nần dồn dập, em út tôi thì chưa đầy 1 tuổi, chị cả tôi thì cũng mới 17 tuổi nên bao nhiêu công việc dồn dập làm rối cả lên, một đằng lo cái ăn, một đằng lo bệnh tật của cha tôi, đằng khác phải lo phần hồn cho cha tôi nữa. Chiều ngày 22, chẳng biết có phải là cha tôi biết trước giờ chết hay không nữa mà cha tôi bảo mẹ tôi lên gặp Cha sở xin xức dầu lần cuối nữa dù chẳng biết đây là lần thứ mấy rồi, mẹ tôi bảo chị cả tôi xuống dưới Thanh Bồ Đức Lợi, là nơi bà con bên ngoại tôi ở đó, báo với dì Doạn là chị ruột mẹ tôi và cậu Đàn là anh ruột mẹ tôi là e rằng ba con không qua khỏi, còn chúng tôi thì cụ bảo bồng em qua nhà hàng xóm chơi, không cho ai ở trong nhà cả, chúng tôi biết chuyện chẳng lành nhưng chỉ biết vâng theo thôi chứ không hiểu cặn kẽ gì lắm.

Chúng tôi chơi ở nhà mụ Bông gần đó đến chiều thì nghe tiếng mẹ tôi kêu khóc ở nhà, hóa ra sau khi mẹ tôi lên trình cha về, cha chưa kịp tới thì cha tôi đã ra đi một cách nhẹ nhàng, sau này chúng tôi mới nghĩ ra là cha tôi biết bệnh trạng của mình khi chết thì vi trùng sẽ lan ra bên ngoài nên kêu tất cả nhà tôi ra khỏi nhà, để cụ nằm một mình, cửa sổ mở toang cho thông thoáng để khỏi lây cho các con. Chúng tôi nghe tiếng mẹ khóc thì chạy về thấy cha tôi nằm trên giường, tay cầm xâu chuỗi, ông Lành là hàng xóm được mẹ tôi nhờ qua xem đang lấy tờ giấy hút thuốc đặt lên mũi thử xem cha tôi còn thở không, tờ giấy lặng yên, nghĩa là cha tôi đã ngưng thở, thế là chiếc cột trụ gia đình tôi đã gãy gục khi chỉ mới 43 tuổi, bằng tuổi ấy mà cha tôi đã gầy dựng biết bao cơ nghiệp cho gia đình, từ ngôi nhà ở Đồng Hới cho đến di cư vào Nam dựng xây ngôi nhà này, nay đã ra đi, nhẹ nhàng và bình yên như là Chúa đã cho biết trước giờ ra đi vậy.

Mẹ tôi lúc ấy cũng chỉ mới 40, nhưng già đi hẳn vì bao gánh nặng chất chồng trong gia đình, nhìn quanh trong nhà thì chỉ thấy còn có mình tôi vì chị kế tôi lo bồng đứa em út và chăm đứa em gái, mẹ tôi bảo tôi bây giờ con xuống Thanh Bồ kêu chị cả về ngay, bảo rằng ba mất rồi, tôi cứ thế mặc quần xà lỏn mà đi. Từ Tam Tòa về đến Thanh Bồ thì cũng phải hơn 2 cây số, tôi mới 9 tuổi nhưng cũng nhớ đường, cứ cắm đầu chạy, mệt thì nghỉ, khi đến nhà cậu Đàn và dì Doạn của tôi thì cậu dì bảo chị cả tôi đã về rồi, lúc chị tôi xuống thì cha tôi chưa mất, nay tôi báo là cha tôi mất rồi thì cậu dì cũng cảm thông lắm, bảo con về trước rồi tối cậu đến. Tôi lại vừa đi vừa chạy trở về, ra đến đường cái thì trời đổ mưa lớn, tôi cứ mặc vậy mà chạy giữa mưa, trận mưa hôm đó lớn lắm, đường lộ mà ngập đến hơn đầu gối tôi, về đến nhà thì rét run cầm cập, chỉ nghe tiếng chị tôi và mẹ tôi kêu khóc, hàng xóm cũng tới, người lo tẩn liệm người lo mua hòm. Sau này tôi mới biết là lúc đó trong nhà mẹ tôi chẳng có tiền mua hòm nữa, phải chạy vay ai đấy mấy nghìn để lo đám tang cho cha tôi, nhớ lại thôi mà tôi không cầm được nước mắt. Ngày nay anh chị em cháu chắt nhà tôi tuy không giàu nhưng ai nấy cũng ổn định chứ chưa bao giờ nghĩ rằng gia đình mình lại phải trải qua những tháng ngày bi thương như vậy. Nhớ lại để cám ơn Chúa vì chúng con đã vượt qua, vượt qua tất cả khốn khó mà trụ lại được với đời…

Chị tôi đi đánh điện tín cho ông Thí ở Huế, cũng dòng Nguyễn Tử nhà tôi, là em bà con xa với ông nội tôi, nghe tin, ông tức tốc vào ngay để kịp liệm cha tôi. Hôm đó có cậu mợ Đàn, dì Doạn, ông Thí và một số bà con khác cùng các ông chức việc trong xứ như ông Gẫm, ông Xoan đến đọc kinh tẩn liệm cho cha tôi. Trước khi qua đời, cha tôi dặn mẹ tôi là nếu cha tôi có qua đời thì cũng không được báo cho anh tôi đang ở Thiếu Sinh Quân biết, để anh tôi yên lòng mà học tập, cho nên khi liệm xác, chỉ có anh Bồn là con đỡ đầu của cha tôi và tôi thế chỗ trưởng nam của anh tôi. Thánh lễ an táng cũng có mặt cậu dì đầy đủ, thời ấy đoàn Thiếu nhi Thánh thể mới lập nên huynh trưởng và các em rất đông, đưa quan tài ra và đoàn rước dài gần cả cây số, chắc cũng khoảng bảy tám trăm người là ít, bởi cha tôi rất được lòng mọi người, cha sở và ai ai trong xóm cũng kính trọng quý mến nên họ đi đưa tiễn rất đông, quan tài đang ở nhà thờ mà thánh giá nến cao đi đầu đã đến gần nghĩa địa ở Thạch Thang Quảng Nam. Sau đám tang thì nhờ bà con và ân nhân giúp nên mẹ tôi trả hết tiền vay mua hòm, tôi nghe kể lại thì bà con cho mẹ tôi tiền còn hàng xóm thì ai cũng nghèo, phong tục bấy giờ thì họ thường phúng điếu bằng một hộp sáp (trong Nam gọi là đèn cầy), số hộp sáp chất đầy cao lên trên giường, chị tôi sau đó phải đem xuống chợ Cồn bán lại để bù thêm vào tiền nợ vay, rồi sau đó chúng tôi lại tiếp tục cuộc sống mưu sinh thường ngày... (TOP)

Nạn lụt

Sau trận lụt cuối năm Giáp Thìn, Quảng Nam bị tàn phá dữ dội, biết bao nhiêu người không nhà không cửa phải tản mác khắp nơi. Cha tôi vừa mất xong thì có một gia đình người Quảng Nam lưu lạc sau trận lụt đến xin ở trọ, gia đình ông bà ấy lớn tuổi hơn cha tôi và họ cũng có một người con trạc bằng tuổi chúng tôi. Mẹ tôi cho họ vào ở chung trong nhà, thôi thì lá rách đùm lá nát vậy, thấy họ quá cực khổ, mặc chỉ một bộ đồ trên người nên mẹ tôi lấy áo quần lính của cha tôi hồi trước, toàn bằng nỉ dày cho họ tất cả, hai vợ chồng này mừng lắm, ban ngày họ đi làm thuê làm mướn ở đâu không biết, chỉ có tối về ngủ chung trong nhà tôi, ngôi nhà nhờ đó mà cũng ấm cúng lên đôi chút. Được mấy tháng thì gia đình ấy được chính phủ cho đất và vật liệu làm nhà bên Mỹ Khê nên họ từ biệt gia đình tôi ra đi, chúng tôi cũng quý mến họ lắm và nhận họ làm cha mẹ nuôi. Sau này chị tôi có dẫn tôi qua thăm họ, lúc ấy họ đã có nhà cửa ổn định rồi.

Trong thời gian này, chị cả tôi nhờ bác Lượng là anh của dượng Kiếm, chồng O Cúc của tôi, xin cho một công việc làm lao công quét dọn trong ngôi biệt thự của một gia đình người nước ngoài dưới phố, nhờ vậy mà gia đình tôi có thêm thu nhập. Nhà cửa bấy giờ trống vắng quá nên mẹ tôi cho một người hành khất tên là Mụ Siêu ở nhờ, mụ bị mù mắt, ban ngày đi xin ăn, tối về ngủ. Mụ có giọng hò rất hay, dễ làm xiêu lòng người khác, thế nên mỗi ngày đi xin ăn mụ cũng kiếm được đôi chút để dành. Thông thường hàng ngày mụ nhờ cái đứa con nít nào đó dắt mụ đi rồi mụ cho tiền nó. Có một lần, hôm đó chẳng có ai dắt mụ đi, tôi đi học về thấy mẹ tôi đi công chuyện vắng, chị kế tôi cũng đi chơi đâu đó, chỉ thấy mụ Siêu ở nhà, tôi lấy làm lạ hỏi mụ bệnh hay sao mà không đi xin, mụ bảo cái đứa con gái thường dắt mụ đi nay nó bệnh hay sao đó mà nghỉ, cho nên mụ phải ở nhà, rồi đột nhiên mụ rề rà hỏi thăm tôi: Chiều ni mi dắt tau đi đi, tau cho mi một đồng. Tôi không dám đi vì sợ chị tôi mắng, nhưng mụ cứ vòi mãi, bảo rằng đi phía bên ni chị mi không biết mô, và thế là chiều đó tôi đi với mụ, đi theo đường ga xe lửa xuống dọc cái cầu vồng, mụ cứ vịn vai tôi và hò nhiều câu tê tái lắm, thỉnh thoảng dừng lại để người ta cho tiền, đến chiều thì cũng kịp về nhà, mụ cũng được năm mười đồng chi đó và cho tôi một đồng. Ai ngờ vô nhà thì chị cả tôi đi làm về bắt gặp, chị tôi hỏi ra sự việc thì trố mắt lên đau xót, chị tôi lấy roi và bắt tôi lên giường nằm, chị vừa khóc vừa đánh tôi mấy roi, bảo rằng Lân ơi, nhà mình nghèo lắm, nhưng đâu phải đến nỗi để em phải đi xin ăn như vậy, mụ Siêu đứng ra năn nỉ xin chị tôi tha và nhận lỗi tại mụ chứ không phải tại tôi, chị tôi thương tôi lắm, nên chỉ biết ngồi khóc, thấm thía nỗi đau con không cha như nhà không nóc. Năm ấy tôi đang học lớp Nhất (lớp Năm bây giờ) thế mà suy nghĩ vẫn còn ngu ngơ quá. Đúng vậy, nhà nghèo thật, nhưng chưa đến nỗi phải đi xin ăn. Cũng may là cũng chỉ lần duy nhất đó rồi thôi. Mấy tháng sau, mụ Siêu xin ở nhà khác gần chợ hơn nên không ở nhà tôi nữa.

Thời gian này chính trường xảy ra biến động nhiều lắm, nghe đâu tướng Nguyễn Chánh Thi đảo chánh chống lại Hội đồng Quân nhân Cách mạng hay tướng Nguyễn Khánh lung tung sao đó mà tôi thấy người ta bắt đầu kỳ thị và áp bức người công giáo theo phe Cụ Diệm. Trại định cư Tam Tòa của chúng tôi như một ấp chiến lược, chỉ có hai ngõ ra vào, còn mặt kia giáp biển, mặt nọ giáp đường rầy hỏa xa, cho nên hở ra có việc gì là đánh chuông nhà thờ, kêu gọi giáo dân vùng lên, mỗi lần như vậy thì thanh niên trong khu được vũ trang đầy đủ, súng ống đâu ở bên đồn Bảo an đưa sang nên tình hình rất nguy hiểm, dân Tam Tòa chẳng sợ ai cả, chia phiên ra canh gác mọi mặt, y như một trại lính.

Một đêm nọ, trời vừa sập tối thì nghe tiếng chuông nhà thờ đổ liên tục rồi tiếng kẻng báo hiệu vang lên khắp xóm, dân làng ai nấy lục đục chuẩn bị đồ đạc, rồi tin đồn từ đâu loan xuống, mọi người hối hả xách đồ đạc cá nhân di tản sang bên kia đường rầy, ở đó có một cái sân banh rộng để tạm trú ở đó, dành bên làng cho lực lượng thanh niên tử chiến với quân đội sắp đàn áp giáo dân, mọi người hối hả ra đi nhưng không có vẻ gì lo sợ cả, ai nấy đều quyết chiến với bọn đàn áp tôn giáo. Đến nơi, từng gia đình chia nhau từng khoảng sân để trú ngụ, lúc ấy em út tôi còn nhỏ, mẹ tôi trải chiếu giữa đất cho nó nằm tạm, đâu khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau, chẳng thấy tiếng súng giao tranh ở đâu cả, chị tôi chạy về nhà thám thính thì thấy xóm làng lặng im như tờ, vô nhà thì thấy mọi thứ vẫn bình yên, liền quay trở lại báo mọi người biết quay về chứ nếu không thì kẻ trộm nó vào khuân hết đồ đạc thì sao? Và thế là cả hơn trăm con người lục tục kéo về, cũng may là không xảy ra chuyện gì. Sáng hôm sau, cả khu Tam Tòa như sống trong thời chiến, tôi mò ra xem thì thấy từng nhóm thanh niên súng ống đầy đủ, chia ra từng nhóm canh giữ, ai nấy đều cười nói vui vẻ, có vẻ như sẵn sàng quyết chiến với địch quân vậy. Bẵng đi một hai tuần sau thì mọi việc trở lại bình thường, súng ống đều phải giao nộp lại cho đồn Bảo an và cũng không hề nghe ai nói đến đàn áp nữa. Dân Tam Tòa là thế, bình thường thì rất hiền, nhưng nếu bị ức hiếp thì chơi tới cùng, chẳng hề ngán ngại thế lực nào. (TOP)

Vào dòng lần thứ nhất

Năm 1966, sau khi tôi học xong lớp Năm, tôi được phần thưởng hạng nhì, vì trong lớp có con bé tên là Kim Dâng nó học giỏi quá đi, nó người Bắc di cư ở đâu đến chứ không phải dân Tam Tòa chúng tôi, tính ra thì nó lớn hơn tôi một tuổi và nói giọng Bắc Kỳ nhẹ nhàng dễ thương lắm, bọn con trai chúng tôi gắng sức học đua với nó nhưng không lại, bởi nó chăm và viết chữ rất đẹp, do vậy nên tôi chấp nhận đứng hạng nhì thôi. Trong thời gian này, tuy mới 10 tuổi nhưng tôi đã được học lớp Giáo lý Thêm sức chung với chị kế của tôi, lúc ấy chị tôi đang học lớp Đệ Thất trường Thánh Tâm Đà Nẵng. Hai chị em tôi Thêm Sức một lượt, tôi nhận ông Mầu làm Bõ đỡ đầu Thêm sức, còn chị tôi nhận ai làm Vú đỡ đầu thì tôi không nhớ.

Thêm sức xong thì mẹ tôi và chị tôi bàn với nhau, gởi tôi đi nhà dòng Phanxicanh ở Huế học, vì mẹ tôi có quen thầy Đồng, là anh của mợ Mạnh, vợ của cậu tôi, thầy đang muốn chiêu sinh các em ngoan ngoãn ra ngoài đó học, để mong nhận Ơn gọi sau này, thế là tôi chuẩn bị lên đường ra Huế, đến một vùng gọi là Lại Ân - Sình, gần cửa biển Thuận An. Mới mười tuổi mà phải xa gia đình nên tôi khóc dữ lắm, cả Tam Tòa chỉ có mình tôi đi, còn mấy bạn khác thì ở dưới xứ khác. Thầy Đồng liền động viên tôi rằng ra ngoài ấy sẽ có bạn bè đông thì sẽ rất vui thôi. Và thế là nghe lời mẹ, tôi khăn gói lên đường, tiền bạc sinh hoạt học phí thế nào chị tôi và mẹ tôi lo gởi cho thầy cả, tôi chẳng biết tí gì, chỉ có trong túi được mấy đồng dành dụm bấy lâu nay mà thôi. Chúng tôi đi xe đò ra ngoài Huế rồi đi thuyền xuống Thuận An, ngang qua Lại Ân thì dừng lại, đi bộ vào nhà dòng.

Lại Ân là một vùng quê yên tĩnh và rất đẹp, địa danh này còn gọi là Sình, xa hơn nữa là Sịa. Nơi đây sau này tôi mới biết là truyền thống Làng Vật, trai tráng trong làng hàng năm tổ chức các cuộc thi Vật nổi tiếng khắp cả nước. Từ bến đò đi vào trong độ nửa cây số là Trường Phanxicô Lại Ân, ở đây có các lớp từ Đệ Thất cho đến Đệ Tứ, gọi là Trường Trung học Đệ nhất cấp. Phía sau các lớp là ngôi nhà tập thể nằm dưới hàng tre um tùm mát rượi, trong đó kê vài chục cái giường không có vách ngăn. Có hai ngôi nhà như vậy, lớp Đệ Thất chúng tôi có khoảng 30 người, trong đó có mấy đứa là dân địa phương vào học, còn hai mươi mấy đứa kia là nội trú như tôi, các lớp từ Đệ Lục cho đến Đệ Tứ tổng cộng cũng khoảng 60 người mà thôi. Tất cả học sinh trong trường là thế. Các giáo viên hầu hết là các thầy dòng, chỉ đâu khoảng ba bốn thầy khác là thầy giáo từ Huế vào, họ ở một ngôi nhà riêng xây ngoài trường, trên đường đi từ ngoài bến đò vô thì đi ngang qua ngôi nhà đó.

Các thầy dòng Phanxicanh nơi tôi ở không có tiến chức Linh mục, mãi mãi vẫn là thầy chứ không như những dòng khác, do vậy mà hằng ngày chúng tôi không có Thánh lễ vì đâu có Linh mục. Chúa nhật chúng tôi mới đi lễ cách xa trường khoảng ba bốn cây số, chúng tôi phải chuẩn bị trước 1 tiếng đồng hồ thì đi bộ mới kịp đến nhà thờ tham dự Thánh lễ. Hàng tuần, từ sáng sớm Chúa nhật, chúng tôi đi thành một đoàn học sinh áo trắng quần tây hai hàng ngăn nắp dọc theo đường làng, những người nông dân làm ruộng hai bên đường ai nấy cứ ngóng lên nhìn đoàn học sinh của nhà dòng với vẻ khâm phục lắm, vì giữa vùng quê xa xôi này sao lại có các em ăn mặc chỉnh tề như thế? 

Lễ xong chúng tôi cũng đi về hai hàng như vậy, và thường thì mỗi Chúa nhật, chúng tôi được ăn món khác ngoài cơm ra, lúc thì cháo bánh canh, lúc thì bún mắm, lâu lắm lại có bún bò hoặc bún thịt xào. Trong số các thầy dạy, tôi chỉ nhớ mỗi một thầy Celestine, là thầy dạy môn Anh văn cho chúng tôi. Tiếng Anh là môn rất quan trọng, nên ngoài giờ học ở lớp buổi sáng, buổi chiều tăng cường thêm một tiếng nữa rồi chúng tôi mới được nghỉ ngơi, thời ấy học theo giáo trình cuốn sách tiếng Anh gì lạ lắm, tôi vẫn nhớ sách bìa cứng và giấy thì ố vàng rồi, chẳng hiểu các thầy kiếm ở đâu ra nữa, vì thời ấy chưa có bộ sách tiếng Anh English for today như về sau này tôi vẫn học, mới làm quen năm đầu nhưng tiếng Anh tôi cũng tiến bộ lắm. Sau giờ cơm chiều thì chúng tôi phải tập trung tất cả và học bài, rồi vào phòng, tất cả cùng đọc kinh tối, cũng không dài lắm, giờ kinh sáng cũng vậy, sau tiếng kẻng thức là tất cả chúng tôi ngồi dậy tại chỗ và đọc kinh sáng dâng ngày. Thường thì chiều Chúa nhật một là chúng tôi tập văn nghệ, hai là tập trung nghe giảng về Phúc âm và Hạnh các Thánh.

Mỗi ngày thường, sau giờ học thêm Anh văn ban chiều là chúng tôi túa ra đi chơi, thôi thì đủ trò không khác gì ở Đà Nẵng mấy, tôi hay đi chung với một đứa bạn, hình như là nó tên Ngọc thì phải, nó có đôi mắt rất to, da đen nhẻm, người ở Thành phố Huế về đây học. Thằng Ngọc này bắn chim thuộc loại cự phách, mỗi buổi chiều có khi nó bắn gần chục con chim sẻ mập ú, mỗi lần đi, chúng tôi xuống bếp lấy một ít muối tiêu và cái lá gì đấy cay cay quên rồi, đi một vòng là chúng tôi có năm sáu con chim sẻ để ăn, lúc nào Ngọc nó cũng đem theo hộp diêm bên mình, tôi thử bắn mấy lần đều hụt cả khiến chúng bay tán loạn đi mất, nên cứ thấy chim là nó nói mày để tao, và cứ thế, chim đậu trên cây thầu đâu hoặc trên ngọn tre gì nó bắn cũng trúng cả, tôi chỉ việc đi lượm cho nó rồi hai đứa ra ngồi ngoài đồng, lấy rơm thổi lửa nướng chim lên ăn chung với muối tiêu và lá gì đó cay cay, hình như lá chanh thì phải? Tay thằng Ngọc này nghề lắm, nó cầm con chim nhổ lông nhanh như cái máy, loáng một chút là xong, hai thằng tôi ngồi nhâm nhi ngon thật là ngon, bởi cơm của nhà dòng lâu lâu mới có thịt, thường thì cá kho với măng, rồi mắm cà và rau lang luộc các thứ, nên chúng tôi có thêm thịt chim sẻ như là để bồi bổ khoản thiếu sót đó.

Nhưng ăn chim hoài cũng chán, chúng tôi thường đến nhà các thầy để xin khế, vì cây khế ở đó ngọt lắm, có khi ăn liền ba bốn trái một lượt mà không chán. Các thầy ở Huế về dạy nên cũng buồn, thấy hai đứa tôi đến chơi cũng vui lây, lúc thì chơi ca rô, chơi câu đố rồi thầy lấy cây đàn ra tập hát, riết rồi thành quen, mỗi lần thấy chúng tôi lấp ló ngoài cửa là thầy kêu vào ăn khế. Lắm lúc chúng tôi lại lang thang vô trong làng và ra tới ngôi đình làng gần bờ sông, rồi sẵn đó thằng Ngọc kiếm được cái lưỡi câu đi câu cá, nhưng có vẻ như nó không có duyên với cá nên câu toàn được mấy con nhỏ xíu, đành phải quăng đi luôn chứ không mang về.

Cuộc sống ở nhà dòng cứ thế mà trôi đi qua mau chóng, lục cá nguyệt thứ nhất, nhằm Lễ Noel thì trường tôi tổ chức văn nghệ, thời ấy trong làng đâu đã có điện, chỉ có trường tôi là có nhưng buổi tối chỉ chạy điện một chút rồi thôi, với lại cái máy điện chắc là từ đời Pháp thuộc hay sao mà hư hoài, bữa đực bữa cái. Hôm đó mấy thầy nhờ một anh thợ từ Huế vô sửa lại gần cả ngày mới xong, và từ đó, đêm nào chúng tôi cũng tập văn nghệ, các lớp đều có nhiều tiết mục khác nhau, nơi thì hát hợp ca, đơn ca, rồi đóng kịch, rồi ảo thuật, chỉ thiếu có múa, bởi chúng tôi rặt toàn con trai thì ai mà múa cho? Trong trường toàn là đàn ông và con trai, ngay cả người nấu bếp cũng là một thầy gì đó già lắm rồi. Hôm đó đâu khoảng mười mấy tiết mục, tôi cũng được một tiết mục đơn ca bài gì đó tôi quên tựa rồi, nhưng lời ca thì tôi còn nhớ như vầy:

- Đây là bài ca đất tự do - ghi tình đẹp trên những đường xa - đường đi về khắp non sông nhà - ánh dương chan hòa. Đây là đường ra Huế mơ màng - đây là Thành Nha nắng tươi sáng - sống vui thanh bình tình chan chứa trên nước Nam… đại khái là thế, tôi chỉ nhớ đến đấy thôi. Tối hôm đó sau khi hát, cũng thấy họ vỗ tay rần rần, tôi chạy xuống gặp thấy Celestine và hỏi Em hát vậy được chưa thầy? Thầy cười bảo Được, nhưng sao em nhắm mắt từ đầu chí cuối vậy? Haha… Hóa ra ngày nay mỗi khi hát, tôi cũng vẫn thường nhắm mắt mà không biết, nhất là khi phất nhịp cho ca đoàn, ca viên thường cười bảo rằng sao mà anh cứ nhắm mắt hoài vậy? Tôi bảo chắc là đang du dương theo lời ca nên quên mở mắt đó thôi.

Năm học qua rất mau, ngày Tết tôi cũng không được về, hình như ở nhà mẹ và chị tôi có điện tín nhờ một người bà con bên ngoại của tôi là chú Thúc lúc đó đang dạy học ở Huế chạy xe Mobilette từ Huế vào thăm tôi và xin cho tôi về Huế chơi ít ngày. Chú Thúc tuy vai em tôi, nhưng lại lớn hơn tôi cả chục tuổi, chú đưa tôi về nhà mụ Thông là mẹ của chú và cũng có bà con với bên nội tôi nữa, tôi ở lại ba bốn ngày chi đó, trước mặt nhà mụ Thông là nhà ông Thí, là người bà con bên nội của tôi mà tôi đã có lần nói trong đám tang cha tôi, ông là người giúp đỡ gia đình tôi nhiều nhất, lúc cha tôi còn sống cũng như lúc cha tôi qua đời. Tôi chơi ở Huế được vài hôm thì chú Thúc lại chở tôi vào trường tiếp tục học. Sau đó mấy tháng tôi được tin ông Thí qua đời vì tai nạn xe, vì ông có chiếc xe traction màu đen thường chở khách Huế - Đà Nẵng đi về, gặp nạn ở đèo Hải Vân. Nghe tin dữ ấy, chị cả tôi và anh tôi phải ra Huế đưa tang ông, tôi cũng được vào Huế lần nữa để đưa tang, thì ra là sau khi nghe tin cha tôi qua đời được một năm, anh tôi bỏ học, trốn trường Thiếu Sinh Quân về nhà mà tôi không biết. Gặp lại anh chị tôi, tôi khóc quá chừng vì nhớ nhà, nhưng chị tôi bảo phải ráng cho hết năm học. Đưa tang xong, tôi trở lại trường và chỉ còn có một hai tháng nữa là nghỉ hè thôi, nên tôi cũng phấn khởi vì sắp được về nhà với mẹ.

Nhưng vận hạn vẫn chưa buông tha tôi. Hè năm ấy, nghe thầy Đồng hiệu trưởng bảo là đường bộ Huế - Đà Nẵng thường xuyên bị Việt cộng đặt mìn nên chưa về được, phải ở lại thêm một thời gian cho tình hình lắng đi rồi mới đi được, tuy nhiên hơn hai tuần sau vẫn nghe xe đò trúng phải mìn lật nhào khiến nhiều người chết và bị thương nên thầy không dám mạo hiểm cho chúng tôi về, chúng tôi khoảng gần hai chục đứa chứ có ít đâu? Bọn chúng tôi nôn về lắm, bởi các anh lớp khác nghỉ hè đã về Huế cả rồi còn lại chúng tôi thui thủi trong trường, đứa nào cũng nhớ nhà muốn khóc. Thầy Đồng liền chạy vạy liên hệ sao đó thuê một chiếc thuyền máy chở chúng tôi về Đà Nẵng bằng đường biển, chiếc thuyền cũng khá to, tôi đứng thẳng thì tầm mắt cũng vừa tới mạn thuyền thôi. Chiều hôm đó, thầy đưa chúng tôi lên đường đi ra cửa biển Thuận An, nhà trường làm sẵn cơm nắm ăn với muối ruốc và muối mè để dằn bụng. Lúc đầu thi không thấy gì vì đi trên sông, đến khi ra biển rồi thì chúng tôi bị sóng dập tơi tả, hầu như đứa nào cũng ói đầy khoang, tôi nhìn lên chung quanh chẳng thấy đất liền đâu cả, lòng rất hồi hộp và rồi mệt quá nên khi đêm về, tôi ngủ thiếp đi lúc nào không biết, rạng sáng chúng tôi được thầy đánh thức dậy rửa mặt thì mặt trời cũng vừa lên, tôi nhìn xa xa thấy đất liền và thầy bảo là sắp đến Đà Nẵng rồi đó. Chúng tôi phấn khởi và nôn nao hẳn lên, khi tàu cập vào bờ thì cũng đâu khoảng tám chín giờ sáng đó thôi, lúc đó tôi được thầy hay ai đưa về nhà ở Tam Tòa nữa cũng không nhớ, chỉ biết về nhà gặp mẹ là mừng rồi. Qua năm sau, vì chiến tranh, đường đi lại thường xuyên bị đặt mìn, tai nạn xảy ra hoài nên Thầy Đồng không vào chiêu sinh nữa, tôi lấy học bạ rồi nộp đơn vào học lớp Đệ Lục trường Phan Thanh Giản là trường Tư thục, vì trường công Phan Chu Trinh chỉ thi tuyển từ năm Đệ Thất thôi, chứ không chiêu sinh giữa chừng. (TOP)

Về lại Đà Nẵng

Năm 1967, thời gian này anh tôi đã bỏ học quay về nên đi chơi lung tung, chỉ còn chúng tôi đi học thôi. Nhà tôi có người trả được giá nên mẹ tôi bán ngôi nhà xây đó, và mua một lô đất khác rồi làm nhà lại, chỉ là nhà gỗ mái tôn thôi nhưng cũng mất mấy tháng. Bán nhà xong thì chị cả tôi đi vô Nam tìm công việc làm ăn mới chứ làm lao công ở Đà Nẵng cũng không thấm béo gì, vô Nam vì có cậu dì tôi ở trong đó, biết đâu tìm được công việc khá hơn. Tuy mới 19 tuổi nhưng chị cả tôi lanh lẹ lắm, chị tuy chỉ học mới hết Đệ Thất là nghỉ học vì phải ở nhà lo cho gia đình trong lúc cha tôi bệnh nặng, nhưng chị thông minh và quán xuyến mọi việc. Sau khi bán nhà thì chúng tôi lại ở nhờ nhà một người quen khác là mụ Chuộng ở trong xóm, chờ làm nhà mới xong mới về ở được.

Chị tôi đi được mấy tháng thì quay về, bảo rằng đã tìm được việc làm rồi nên nói mẹ tôi và chúng tôi theo chị vô Nam, mẹ tôi hỏi việc gì thì chị tôi bảo chị có mở một tiệm giặt ủi trong doanh trại của Mỹ ở căn cứ Đồng Tâm Mỹ Tho nên thu nhập cũng khá ổn định, anh tôi không chịu cho đi và hai người cãi nhau dữ lắm, rốt cuộc chị tôi chỉ được phép đem chị kế tôi và đứa em gái tôi vào Nam mà thôi, còn bên con trai ở lại với mẹ, chị tôi buồn lắm nhưng cũng đành chịu. Từ đó tôi chỉ ở nhà một mình, đi học một mình, vì anh tôi đi chơi suốt, chẳng ngó ngàng gì đến tôi, thỉnh thoảng gặp thì anh tôi đe tôi là phải ráng học chứ đời anh tôi thì bỏ đi rồi, không học hành gì được nữa, tôi phải ráng cố lên.

Đến cuối năm 1967, chị tôi gởi thư ra bảo gia đình tôi vô Nam gấp vì chị tôi đã thuê được nhà rồi, bấy giờ anh tôi mới chịu cho tôi đi, cũng thật là bất tiện vì lúc ấy tôi đang học dang dở lớp Đệ Lục trường Phan Thanh Giản Đà Nẵng, đành phải bỏ để vào Nam, chị tôi gởi tiền mua vé máy bay cho anh tôi đưa tôi vào trước, còn mẹ tôi sau khi sắp xếp bán được nhà cửa thì sẽ vào sau cùng em út tôi. Vào trong Nam, chúng tôi xuống thẳng Mỹ Tho, nơi chị tôi đã thuê một căn nhà ở Hàng Cồng, ban ngày chị tôi đi làm, chị kế và em gái tôi đi học, còn tôi thì đang dang dở, tết nhất lại sắp đến nên chị tôi chưa xin cho tôi vào học tiếp được, tôi ở nhà một mình, mỗi ngày đều có người ta nấu cơm tháng đưa đến nên chị em tôi khỏi phải nấu nướng gì. Đến gần Tết thì mẹ tôi cũng dắt em tôi vô, dù nhà ở Đà Nẵng vẫn chưa bán được. Mới tạm tạm yên ổn thôi thì ngờ đâu Tết năm ấy lại là một cái tết bạo loạn và kinh hoàng: Tết Mậu Thân 1968. (TOP)

Giặc Mậu Thân

Cái mà bây giờ người ta gọi là cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân theo tôi nó chỉ gây ra nỗi kinh hoàng cho người dân mà thôi, chứ theo như đánh giá công tâm của lịch sử, thì nó đúng là đã thất bại, bởi những cán binh Việt cộng nằm vùng và bộ đội chính quy Bắc Việt chết vô số kể, trong lúc không phải do tuyên truyền mà ai nấy cũng đều bảo trốn chạy khỏi Việt cộng gọi là chạy giặc, bởi cuộc sống đang yên bình thì lâu lâu vài đêm lại pháo kích một lần làm chết biết bao người dân thường, chỉ dân thường chịu trận chứ binh lính họ trú ẩn đâu đó sẵn sàng chiến đấu rồi nên đâu có thấy họ tổn thất gì. Mỗi lần nghe pháo kích thì mẹ và chị em tôi chỉ biết nằm dưới nền đọc kinh xin Chúa cho chúng con thoát nạn chứ trong nhà thuê này không có hầm trú ẩn, nỗi kinh hoàng cứ kéo dài ngày này sang ngày khác, đêm này sang đêm khác, do vậy mà cứ hễ Việt cộng đến đâu thì dân thường chết và bỏ chạy đến đó, cho nên không cần tuyên truyền, người dân cũng gọi đó là chạy giặc để đến vùng tự do an toàn, chứ có thấy ai chạy ngược vào vùng của Việt cộng bao giờ đâu?

Tôi còn nhớ Tết năm ấy ở Mỹ Tho, ở nhà mẹ tôi đã sắm sửa đầy đủ, mong được đón một cái Tết an bình vì nghe đâu đài phát thanh bảo là sẽ có hưu chiến để người dân hai bên Quốc gia và Việt cộng an tâm đón Tết, như vậy là yên tâm vì không còn phải sợ pháo kích hằng đêm nữa. Đêm giao thừa anh tôi đi chơi ở nhà bà con, còn chị cả tôi thì đi dự tiệc ở nhà người bạn nên không về, rạng sáng Mùng một Tết bỗng nghe súng bắn và đạn pháo nổ liên hồi, khu vực Hàng Cồng nơi chúng tôi ở lại cận kề ngoại ô thành phố nên chúng tôi nghe tiếng chân chạy rầm rập ngoài đường, tiếng súng nổ, tiếng xe gắn máy của ai đó đang chạy bị bắn té xuống rồi im bặt, thì ra khu vực tôi ở đã bị cán binh Việt cộng chiếm giữ rồi, gia đình bà chủ nhà cùng gia đình tôi nằm sấp giữa nền nhà sau, phòng khách bên ngoài khóa chặt cửa, lâu lâu lắng nghe thì có ai đó nói và hét lên, lại có tiếng súng bắn dữ dội thì ai cũng thót cả ruột, nằm lặng im như thóc, sợ rằng họ mở cửa vô thì coi như xong, con Mầu con bà chủ nhà nằm cạnh tôi cứ luôn miệng thì thầm: Lạy Chúa cho con sống, Lạy Chúa cho con sống làm bác San mẹ nó đưa ngón tay lên miệng ra dấu bảo im. Ngoài đường tiếng súng vẫn giao tranh dữ dội, hóa ra nơi tôi ở đến Giếng nước không xa, đó là hai cái hồ lớn nhân tạo dẫn nước từ sông Cửu Long về, phía bên kia hồ là nhà của phu nhân Tổng thống Thiệu, cho nên Việt cộng tìm đủ mọi cách đánh chiếm vượt qua hồ để chiếm tòa nhà ấy, tuy nhiên sau phút ngỡ ngàng vì bên Giải phóng đã vi phạm Lệnh hưu chiến, quân đội đã tập trung lại và tấn công dữ dội khiến bên Việt cộng không thể nào tiến sát con đường Lý Thường Kiệt để vượt qua bên này hồ, tiến vào thành phố được.

Quân đội sau khi đã tập trung tại các tuyến đã ngăn chặn và tấn công khắp rìa thành phố khiến cán binh Việt cộng và bộ đội Bắc Việt tử thương vô số kể, bên Quốc gia càng lúc càng lấn ra đẩy lùi Việt cộng về phía ngoại ô, cho nên trước mặt nhà tôi giao tranh ác liệt lắm, đến khoảng giữa trưa thì tiếng súng thưa dần, không còn ác liệt như ban sáng, chúng tôi nghe tiếng xe nhà binh chạy ngoài đường thì mới thấy yên tâm, sau này tôi mới biết đó là loại xe thiết giáp, nhưng không phải bánh xích mà là bánh hơi, nó chạy rất nhanh và hỏa lực trên đó rất mạnh, như vậy là khu vực của tôi khá là tạm ổn, chừng đầu giờ chiều thì chị tôi chạy về, trên đường chạy thì chị tôi bị thương vì mấy mảnh đạn pháo kích, có miếng trúng ngay má chị tôi nhưng không nguy hiểm lắm, sau đó anh tôi cũng chạy về và cũng bị ba mảnh đạn pháo găm vào người. Chị tôi bảo hiện vùng này chưa yên đâu nên mọi người cần phải dời đi ngay. Chúng tôi thu dọn đồ đạc cần thiết và chạy về phía đường gì đó dọc bờ sông Tiền tôi không nhớ, ở đó có trại dành cho dân tị nạn và bên ngoài có lực lượng Quốc gia và lính Mỹ từ Đồng Tâm về yểm trợ nên an ninh hơn. Thế là chúng tôi cùng gia đình bà chủ nhà thu vén đồ đạc theo ngõ sau, đi bộ về phía sông Tiền, không dám nhìn ra ngoài đường vì lúc ấy chưa biết Quốc gia hay Việt cộng đã kiểm soát nơi ấy.

Vừa đi vừa lấp ló quan sát, có lúc phải chạy, được một quãng dài thì tới nơi, đến đó đã thấy rất đông người tị nạn như chúng tôi ở trong một khu xưởng lớn làm xơ dừa, bên ngoài có lính Quốc gia và lính Mỹ tuần canh, thấy họ cũng không có gì căng thẳng lắm nên chúng tôi cũng yên tâm phần nào. Chiều đến, chị tôi chạy đi đâu đó bán 5 phân vàng có tiền để mua đồ ăn cho cả nhà. Chạy tị nạn nhưng mà ăn uống thấy ngon miệng lắm. Từ nơi trú đến nhà bà con chúng tôi trong thành phố cũng không xa, nhưng chúng tôi vẫn chưa đi được vì giao tranh vẫn chưa hết. Đêm hôm đó chúng tôi ngủ lại Trại xơ dừa, chẳng mùng mền gì ráo trọi, nghe thấy ban đêm tiếng súng và tiếng pháo rất gần, có vẻ như bên Việt cộng lại tấn công lần nữa, rất may là không bắn thẳng vào khu vực của chúng tôi, đến đêm thì thấy lửa cháy bùng lên hướng nhà tôi đang thuê, sáng cả một góc trời, mẹ tôi bảo thôi rồi, nhà cháy hết rồi, còn rất nhiều đồ đạc và áo quần chưa kịp mang theo. Qua sáng hôm sau thì giao tranh vẫn còn lẻ tẻ như có vẻ như bên Việt cộng đã rút lui, quân đội quốc gia đổ về chặn các chốt vào thành phố, khu nhà tôi chỉ thấy khói vẫn còn nghi ngút. Lúc đó chị tôi và anh tôi đã tìm cách vào được thành phố rồi và đang nghĩ cách làm sao đưa cả gia đình vào cho an tâm.

Sáng hôm sau mẹ tôi vẫn lo lắng ở nhà quá nhưng chưa dám quay về vì biết đâu giao tranh nữa thì nguy, đợi đến trưa thấy người ta lục tục kéo đi nên mẹ tôi bảo chị kế tôi ở lại trông chừng hai em, tôi và mẹ tôi quay về xem nhà cửa thế nào và coi có còn sót chút đồ đạc nào không, hai mẹ con đi giữa đường vắng ngắt rồi len vào hẻm, đến khu nhà tôi. Hỡi ôi, chỉ còn một đống gạch vụn, khói vẫn còn bốc đâu đó, trận cháy tối hôm qua do đạn pháo hay gì đó không biết đã thiêu hủy toàn bộ khu xóm, phải tìm cái hàng rào và cái cổng mới biết được nhà mình, mẹ tôi lục tìm thì thấy cái lu gạo vẫn còn, mở cái nắp sành ra thì tất cả gạo đã cháy thành than, lục tìm mãi không thấy thứ gì, chỉ còn một con dao phay cầm lên vẫn còn nóng hổi, mẹ tôi tiếc nên cầm về.

Đến chiều hôm đó thì chị tôi quay về, bảo rằng một chút sẽ có xe chở dân tị nạn vào trong thành phố, do đó chúng tôi gom góp chút ít đồ đạc còn lại mang theo rồi một lúc sau, có mấy chiếc xe Dodge của lính đến chở mọi người đi, đến trường Nữ Tiểu học thì dừng lại, ở đấy có mấy người tiếp đón đưa chúng tôi vào trong phòng học, trước đó cũng có nhiều người đến rồi nên số người tị nạn tại đó đã lên đến hai ba trăm người, chúng tôi vào tìm được một phòng học khá lớn ở tầng dưới và chọn được một góc cho gia đình, chung với các gia đình khác, những người đến sau thì phải lên tầng trên. Sau đó anh tôi đến rồi khai tên tuổi cả nhà để nhận gạo cơm bánh mì và tiền trợ cấp cho gia đình tôi.

Cũng may là trong trường có sẵn nhà vệ sinh và nước phông tên nên hằng trăm người vẫn đủ dùng, người thì nấu cơm, người thì tắm rửa, người thì ngồi bình luận thời sự nên thấy cũng vui vui, tuy nhiên khi tối đến thì lại có tiếng pháo kích rất gần, một trái đạn nổ chát chúa ngay trên đầu chúng tôi, mọi người nhìn quanh thấy không ai bị sao cả, qua hôm sau tôi mới nghe nói là trúng ngay trên nóc nhà chúng tôi trú, nhưng nhờ trường là nhà lầu nên đạn cối chạm vào mái tầng trên thì đã nổ rồi, không chui xuống tầng dưới được nên chúng tôi vẫn an toàn, chúng tôi có chạy lên lầu xem thì thấy mảnh đạn văng khắp nơi, hôm đó chỉ có ai đấy ở trên lầu bị thương chứ không có ai chết cả, sau đó nhân viên cứu trợ yêu cầu tất cả những người ở trên dồn xuống tầng dưới cho an toàn, hơi chật một tí nhưng yên tâm hơn, các tầng trên hoàn toàn bỏ trống.

Chúng tôi tị nạn trong trường Nữ tiểu học đâu cũng gần hai tháng, lương thực thực phẩm người ta tiếp tế nên không lo, họ lại cho thêm ít tiền nữa nên mẹ tôi cũng mua bếp lò nấu nướng mọi thứ ăn uống y như ở nhà, chỉ là không biết ngày mai sẽ ra sao mà thôi? Ban ngày thì yên ổn không sao cả, nhưng đêm về hầu như đêm nào cũng có pháo kích, không nhiều thì ít, may là pháo bằng đạn cối 82 li chứ sau này tôi nghe nói nếu pháo bằng hỏa tiễn 122 li thì nó phá toang tầng bê tông luôn chứ chẳng chơi. Cũng vì có tầng bê tông che chở nên mọi người quen dần, chẳng còn sợ pháo nữa. Trong trường, họ bắt cho mấy cái tivi xoay đủ mọi hướng trong sân để đêm về dân tị nạn ra xem, ngoài tin tức thời sự ra thì tôi vẫn nhớ có Chương trình Lúc 0 giờ rất hồi hộp và gay cấn lắm, chúng tôi cũng coi nhưng khuya quá phải vô ngủ vì ở ngoài trời sợ pháo kích. Lúc này chị tôi cũng đang tìm đủ mọi cách để cho cái cửa tiệm giặt ủi hoạt động lại nên vắng nhà thường xuyên, tuy nhiên rất khó vì sau tết Mậu Thân, an ninh ra vô doanh trại Đồng Tâm của Mỹ siết chặt quá nên công việc rất khó khăn. Anh tôi thì cũng đã đến tuổi quân dịch, tuy tính tháng sinh thì chưa đủ 18 tuổi nhưng cũng phải lo chuẩn bị đăng lính chứ không thì sẽ bị bắt vì tội trốn quân dịch. Gia đình tôi lúc ấy có quen bác Đức ở chung phòng tị nạn, cùng đạo công giáo nên thân nhau lắm, ăn uống có miếng gì ngon thì san sẻ nhau, các con của bác như chị Dần, anh Mão, anh Ngọ… cũng hầu như cùng độ tuổi với chúng tôi nên chúng tôi rất quý mến nhau, do vậy mà anh Mão con của bác thua anh tôi một tuổi nhưng tình hình như vậy thì phải đăng lính thôi chứ đâu có ở nhà tơ lơ mơ như vậy được, thế là anh tôi và anh Mão quyết định đi đăng lính để khỏi sợ ai bắt. 

Mỗi đêm, cả nhà chỉ biết mong ngóng đến ngày mai bình yên và đêm nay không bị pháo kích, những ước mơ đơn giản như thế cũng thật không phải dễ, vì sau trận Mậu Thân, bên cán binh Việt cộng thiệt hại quá nhiều, chúng tôi xem tivi nghe đâu không chỉ Mỹ Tho tỉnh Định Tường thôi mà cuộc tổng tiến công này đồng loạt khắp miền Nam, bao nhiêu xương máu con người cả hai bên đổ xuống nhưng cũng chẳng giải quyết được gì đâu? Việt cộng lại rút vô bưng biền, và Quốc gia cũng vẫn điều hành đất nước. Sự thiệt hại hết sức to lớn này càng chứng tỏ sự phi lý của cuộc chiến, và sự thiệt hại cũng đến với riêng tôi nữa, đó là lo chạy giặc, tôi đâu còn được xin vào học tiếp lớp Đệ Lục ở trường nào được nữa, thành ra lớp Đệ Lục của tôi coi như bỏ, vì sau mấy tháng tị nạn ở trường, gia đình tôi không còn chốn nương thân, phải lên Sài Gòn ở nhờ nhà dì tôi ở phía sau Cư xá Lữ Gia đường Nguyễn Văn Thoại, thế là tôi mất đứt một năm học. Thời ấy, nếu học trễ 1 năm được cho là quá tuổi và phải đi quân dịch, cũng may mà ngày xưa cha tôi xin cho tôi học nhảy lớp nên bây giờ mất 1 năm tôi cũng vẫn còn đủ tuổi để theo học tiếp. (TOP)

Tổng tiến công đợt 2

Anh tôi chưa kịp đăng lính thì phải lo cùng gia đình tôi khăn gói lên Sài Gòn, tiếng là khăn gói chứ có gì đâu? Mỗi người mấy bộ đồ và nồi niêu soong chảo mẹ tôi sắm lúc tị nạn trong trường. Đến nơi, gia đình tôi cư ngụ chung với gia đình dì Phú của tôi trong một căn nhà tôn vách ván của cậu Bùi Dzinh tôi ngày xưa làm để chăm sóc mấy dãy phố của cậu tôi ở đường Nguyễn Văn Thoại phía trước, mấy dãy phố ấy trong thời chiến nên cũng đóng cửa bỏ không, chờ hết giặc mới cho thuê lại, nên hai gia đình tôi và gia đình dì sống phía sau này cũng tàm tạm, không đến nỗi chật chội lắm. Ngôi nhà giữa đồng không mông quạnh, xa xa mới có khu Mai Khôi, mỗi Chúa nhật chúng tôi cùng nhau đi lễ ở Nhà thờ Mai Khôi gần đó, lâu lâu chúng tôi cũng ghé thăm nhà cậu tôi ở đường Lê Văn Duyệt nên khu này tôi cũng rành lắm.

Tưởng đâu tạm thời yên ổn để tìm công việc mới thì ngờ đâu, không bao lâu sau lại tiếp cuộc Tổng tiến công đợt 2 vào Sài Gòn. Các tỉnh thành khác tôi nghe nói chỉ lẻ tẻ thôi, nhưng cuộc tổng tiến công đợt 2 này vào Sài Gòn mới là chủ yếu. Chẳng hiểu các ông lãnh đạo Việt cộng tính toán sao mà lại mở thêm cuộc tiến công này nữa? Cuộc tiến công đầu đầy bất ngờ, bên Quốc gia chưa chuẩn bị mà bên Giải phóng cũng bị thất bại nặng nề, không làm chủ được tình thế thì bày thêm cuộc tiến công lần 2 chỉ tổ nướng quân mà thôi. Phía bên này đường Nguyễn Văn Thoại, nơi chúng tôi ở thì không sao, nhưng phía bên kia đường và khu vực Tân Bình, đánh nhau vô cùng dữ dội, chúng tôi đứng bên này trông thấy từng đoàn phản lực bay đến thả bom nổ tung trời đất. Quân đội Quốc gia đã có cảnh giác rồi nên họ tấn công ào ạt, đẩy lùi các cán binh Việt cộng và bộ đội miền Bắc, chúng tôi có chạy ra xem mỗi khi ngưng tiếng súng thấy họ chết nhiều vô kể. Tôi cho rằng đây là một sai lầm của giới lãnh đạo Cộng sản miền Bắc, vì cuộc tổng tiến công lần 2 này chẳng giải quyết được gì, chỉ gây thiệt hại tan hoang cho dân thường là nhiều chứ quân đội họ vũ trang hỏa lực đầy đủ thì họ thiệt hại đâu có gì đáng kể, nghe đâu chỉ có Đại tá Lưu Kim Cương tử trận vì máy bay bị bắn rớt mà thôi, hình như đó là cấp cao nhất của bên Quốc gia hy sinh trong cuộc tổng tiến công đó, người mà sau này Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết ca khúc “Cho một người nằm xuống” chính là ông. Như vậy chẳng hiểu họ bày ra cuộc tổng tiến công lần 2 này để làm gì nhỉ? Sau này tôi đọc được thì đó chỉ để nhà cầm quyền Cộng sản gây áp lực với Mỹ trên bàn đàm phán Paris sắp tới. Ngay cả Huế thì Việt cộng cũng chỉ chiếm giữ được 28 ngày, sau đó Quân đội Quốc gia lại đánh cho tan tác phải chạy vào rừng sâu, để lại một Huế tan hoang đổ nát và cả nghìn người bị chôn sống. Thôi thì thủ đoạn chính trị của mấy ông tôi không dám bàn tới, chỉ thấy đơn cử như gia đình tôi và hàng trăm nghìn gia đình khác bơ vơ tan nát, chạy nơi này đến nơi kia, rồi nơi kia đến nơi nọ thôi thì cũng đã thấy bi thương chua xót lắm rồi.

Lần tấn công này đặt chúng tôi vào tình thế cũng khá nguy hiểm, vì ở Sài Gòn bây giờ không pháo kích bằng cối 82 li như ở Mỹ Tho nữa mà bên Việt cộng dùng hỏa tiễn 122 li, đêm nghe tiếng rít của nó thật là ghê rợn, may mà nhà chúng tôi không bị trúng đạn, sáng ra chúng tôi chạy đến xem thấy mấy khoảnh đất bị 122 li bắn trúng tạo thành những cái hố sâu cả gần 2 thước, loại này trúng thì hầm cảng xê cũng phải bật tung lên. Do tình hình nguy hiểm như vậy nên gia đình dì tôi cùng gia đình tôi thu xếp chạy ra nhà cậu Dzinh, rồi cùng với gia đình cậu đến khu Nhà thờ Chí Hòa trú ngụ cho qua đợt tiến công này, nơi đây cũng còn có rất nhiều gia đình khác nữa, những người lớn như anh tôi và Dũng , Cường, con trai lớn của cậu Dzinh thì ở lại trông chừng nhà ở đường Lê Văn Duyệt kẻo người ta hôi của. Lại là những tháng ngày tị nạn, lại nấu cơm, ngủ gầm cầu thang, nhưng ở đây an toàn hơn, dù có hỏa tiễn 122 li bắn trúng cũng không sao vì nhà có mấy tầng lầu lận. Cũng may là sau hơn một tuần ở Chí Hòa thì cuộc chiến cũng ngưng, bên Giải phóng lại bị đánh bật ra ngoài lần nữa, không chiếm được Sài Gòn mà lại để tổn thất hàng bao nhiêu nhân mạng. Chúng tôi lại lục tục kéo về ngôi nhà cũ của dì tôi, thực sự lúc ấy gia đình tôi cũng chẳng biết làm gì để sống trong thời buổi nhiễu nhương này nữa, chị cả tôi chạy vạy xin việc các thứ nhưng cũng chưa có kết quả gì. (TOP)

Ra Quy Nhơn

Bấy giờ gia đình tôi lo cho tôi lắm, bởi trong nhà đâu còn ai đi học nữa, chị kế tôi chỉ học đến lớp Đệ Ngũ thì ngưng, anh tôi cũng đã bỏ học từ hai năm trước, chỉ còn một mình tôi là may ra còn đi học được, nhưng giữa thời chiến này, ngay ngôi nhà để nương thân cũng không có, phải chắp vá với bà con thì làm sao đủ sức lo cho tôi đi học như những đứa trẻ khác được. Anh chị tôi liền viết thư ra cho O Cúc của tôi ở Quy Nhơn, xin gởi tôi ra cho O dượng nuôi để đi học vì Quy Nhơn yên bình hơn là trong này. O Cúc cùng với O Đào tôi là hai người thân thiết nhất của cha tôi ở miền Nam, bởi bên nội tôi độc đinh, nhà lại nghèo, theo gia phả thì ông cố nội tôi là em ruột của ông nội O Cúc, hai anh em ruột lấy hai chị em ruột, nên dòng máu thân sinh ra O Cúc, tức là Ông Đội, cùng dòng máu của Ông nội tôi cũng là một, tuy là anh em chú bác ruột nhưng cũng không khác gì anh em ruột thịt, do đó mà thân thiết lắm. Thuở hàn vi, ông nội tôi là bần cố nông, bà nội tôi qua đời sớm nên phải gởi cha tôi ra cho Ông Đội tôi nuôi ăn học, nhờ vậy mà mới đỗ đạt ra đi làm với đời, chúng tôi không bao giờ quên công ơn ấy. Ngày di cư vô miền Nam chỉ có O Cúc và O Đào thôi, còn O Giáo, người đậu Première cùng lượt với cha tôi, hai bác Minh và bác Hiền cùng các O khác vẫn ở lại ngoài Lệ Thủy Quảng Bình, cho nên dòng tộc bên nội tôi ở miền Nam chỉ còn có thế. Tuy vậy, gia đình các bác các O của tôi theo bên lương chứ không phải theo đạo Công giáo như gia đình tôi, tôi hỏi nguyên nhân thì được biết rằng ngày xưa Ông Đội cũng đạo dòng ấy chứ, nhưng khi lấy vợ thì chỉ được mỗi mình O Giáo tôi là đã rửa tội, sau ông mong có đứa con trai hoài mà không được, chạy lên xin cha sở cho cưới thêm một bà vợ nữa, cha sở không chịu vì làm gì Hội thánh Công giáo có quyền cho người ta hai vợ như thế? Ông tức quá bỏ đạo luôn và lấy thêm người vợ sau này, sinh ra các bác các O của tôi bây giờ, do vậy mà các bác các O của tôi không có đạo Công giáo là vậy. Ngày cha tôi còn sống, thỉnh thoảng hai O có ghé thăm và giúp đỡ tiền bạc cho cha tôi trị bệnh, khi cha tôi qua đời thì hai O ở xa không về kịp, sau này O Cúc tôi có nói là O sẵn sàng nuôi chúng tôi ăn học chứ huống chi là chỉ một mình tôi, và thế là tôi chuẩn bị lên đường, lại tiếp tục cuộc sống xa gia đình lần nữa.

Gia đình lại dồn tiền bạc còn lại mua vé máy bay cho tôi và anh tôi đưa tôi ra Quy Nhơn, đến nơi, gặp chúng tôi thì O Cúc tôi khóc quá chừng, không ngờ mấy đứa cháu của mình lại xác xơ như vậy, dượng tôi cũng vui vẻ đồng ý, tuy rằng gia đình O tôi lúc đó cũng rất đông con, đã 7 người con, 5 trai 2 gái và O tôi cũng đang mang bầu nữa, nhưng không sao, O dượng tôi lo được cả, ngoài tôi ra O dượng tôi cũng còn có lo cho anh Hùng cháu của dượng tôi nữa, cũng hoàn cảnh như tôi, nên tính đám con nít thôi thì cũng đã 9 đứa, nhà O tôi phải thuê thêm chị Lài giúp việc thì mới xuể. Dượng tôi may mắn làm trong đội lính Cứu hỏa nên không phải ra chiến trường cầm súng, do đó mà có thời gian chỉ dạy chúng tôi nhiều hơn. Ra chơi được đôi ba ngày, anh tôi bị O dượng tôi mắng cho cái tội bỏ học trường Thiếu sinh quân, nhưng chuyện đã rồi, tuổi đó thì không đi học lại được nữa, sau đó anh tôi quay vô Nam, và cùng với anh Mão đăng lính vào Sư đoàn 7 bộ Binh ở Mỹ Tho, tỉnh Định Tường.

Sau này tôi mới biết là trong thời gian ấy, sau tổng tiến công tết Mậu Thân lần thứ 2, gia đình tôi lại lưu lạc về Xứ Nam Hưng, thuộc Hóc Môn trong lúc chờ chị tôi kiếm việc làm, còn tôi thì yên phận ở nhà O Cúc tôi ở Quy Nhơn. Nhà con đông lại thêm 2 đứa cháu bên nội bên ngoại nữa nên cuộc sống phải có nền nếp mới yên được, trong nhà có đến 7 đứa con trai xấp xỉ tuổi nhau từ 8 cho đến 13 nên chúng tôi nghịch khỏi phải biết, trong những ngày chờ nhập học niên khóa mới thì anh em chúng tôi bày ra đủ trò, nhà O dượng tôi ở sát bãi biển nên nghịch chán chê, chúng tôi lại ùa ra tắm biển, mỗi lần thay đồ là để cả một thau áo quần, tội nghiệp chị Lài giúp việc, làm không ngơi tay. Dượng tôi phân công cho mỗi đứa chúng tôi từng công việc cụ thể, đứa lo xếp mền gối, đứa lo quét nhà, đứa lo hứng và khiêng nước về hai đứa từng thùng một, đổ đầy 2 thùng phuy mới thôi, tôi thì phải làm nhiệm vụ đánh giày, anh khác thì ủi đồ, chị Lài lo nấu ăn giặt đồ thôi cũng bở hơi tai, thế rồi mọi việc cũng qua, đâu vào đấy. Mỗi lần hớt tóc thì dượng tôi lôi hết cả 7 đưa ra hớt một lượt vào chiều Chúa nhật, vì dượng tôi có cái máy hớt tóc khi dượng tôi du học Mỹ mua về, trong nhà như một tiểu đội lính chiến, lâu lâu phải điểm danh xếp hàng coi có thiếu đứa nào không.

Cuối tháng 7, O dượng tôi làm đơn xin cho tôi học tại trường Trung học La San Quy Nhơn, kế bên trường Sư Phạm Quy Nhơn. Tuy nhà O dượng tôi không có đạo công giáo, nhưng vẫn gởi con cháu mình vào học trường công giáo. Tôi phải học lại lớp Đệ Lục 2 vì niên khóa trước chạy giặc dang dở, còn anh Bình bằng tuổi tôi thì học Đệ Lục 3, anh Vĩnh hơn tôi 1 tuổi thì học lớp Đệ Ngũ, riêng anh Hùng cháu của dượng tôi vì theo đạo Phật nên học trường Bồ Đề.

Trường La San Quy Nhơn đúng là một nơi lý tưởng, giáo dục theo quy chuẩn của các trường nước ngoài nên chú trọng đến Văn, Thể, Mỹ rất nhiều, trong trường có 3 sân bóng rổ, trong đó một sân có mái che để thi đấu và 8 sân bóng chuyền các loại, ngoài giờ học, học sinh bắt buộc phải chơi một môn thể thao mình thích để rèn luyện thân thể, tôi chọn đại là bóng chuyền chứ chơi chẳng có tí nào ra hồn, ngày học hai buổi, chiều về, tôi và hai anh lớn theo học Thái cực đạo do các thầy Đại Hàn dạy miễn phí. Chúng tôi học võ cũng không đến nỗi nào, vì mỗi lần đi thi lên đai, chúng tôi đều đậu, anh Vĩnh lớn hơn tôi và anh Bình một tuổi nên học trước chúng tôi một cấp, thầy Kim dạy các lớp từ vỡ lòng đến đai nâu, thầy Lee dạy các lớp từ đai nâu trở lên, có thêm anh Bình là đai đen nhị đẳng cùng phụ dạy với thầy nữa, mỗi lần thi lên đai, người Đại Hàn họ lo cho tất cả, các thầy lấy xe chở chúng tôi tới sân vận động Quy Nhơn, phát đồ ăn thức uống cho mỗi đứa rồi khi vào thi, chăm chút lo lắng từng đứa một, đến khi đậu rồi thì chúng tôi mừng lắm, còn được thầy thưởng cho mỗi đứa một chai Coca rồi chở về, vậy mà hoàn toàn miễn phí, từ học phí cho đến võ phục các thứ, họ đều ưu ái cung cấp cho chúng tôi. Tôi vẫn nhớ một lần nọ có một võ sinh bị phạt, chẳng qua là vì cậu ấy đi học võ về mà không chịu thay đồ, mặc luôn áo võ đi nghênh ngang ngoài phố về nhà, thầy biết được nên phạt khá nặng, vì theo quy luật thì võ sinh không được phép mang võ phục ở bên ngoài, làm như thế có nghĩa là khoe khoang ta đây con nhà võ, hoàn toàn không chấp nhận, các thầy dặn đi dặn lại tập võ là rèn luyện thể lực, bảo vệ bản thân và giúp người, chứ không phải là ỷ mình có võ được, thế mà ngày nay tôi lấy làm lạ vì thấy các võ sinh ở thành phố luôn mang võ phục ngoài đường chứ chẳng phải như thời tôi hồi đó. Tôi học đến cuối năm thì thi đậu đai nâu cấp 3 rồi nghỉ hè, qua năm sau tôi về lại Mỹ Tho nên không tiếp tục học võ nữa.

Vì đông con nên dượng tôi điều hành gia đình gần như là quân luật, sáng ra nghe tiếng kẻng là cả 7 đứa đều dậy, trời vẫn còn sáng nhưng phải ra chạy tập thể dục, dượng tôi chạy cùng chúng tôi một vòng trong khu gia binh lên doanh trại rồi quay về đứng đó kiểm tra chúng tôi chạy thêm mấy vòng nữa, sau đó tất cả đứng trước sân tập thể dục theo hiệu lệnh của dượng tôi, những gia đình khác trong khu gia binh ai cũng trầm trồ thán phục và khen ngợi dượng tôi, bảo rằng mấy đứa con ông Kiếm kỷ luật hay quá. Thể dục xong, mấy đứa nhỏ thì vô nhà rửa mặt, còn ba anh em tôi đứng tập võ từng bài quyền một cho dượng tôi xem, sau đó cả ba đứa chạy xuống biển tắm rồi lên bờ tắm lại, ăn sáng và sửa soạn đi học. Tối về học bài xong thì xem tivi, chúng tôi thuộc hầu hết các phim trên Đài truyền hình Mỹ hồi đó như Bonanza, Wild Wild West, Gunsmoke, Star Strex, Combat…, coi xong rồi tất cả lên giường nằm ngủ đúng giờ. Cái thời khóa biểu ấy chúng tôi chấp hành răm rắp, nếu không thì sẽ bị đòn. Tôi nhớ tôi cũng chỉ bị đòn một lần mà thôi vì hôm đó mấy anh em tôi chơi nghịch quá, suýt chút nữa thì cháy nhà, lần đó dượng tôi đánh tôi có mỗi hai roi nhè nhẹ thôi vì có O tôi đứng đó, không muốn làm O tôi đau lòng, còn hai anh thì bị mỗi người ba roi. Chỉ một lần bị đòn đó thôi, còn hai anh tôi thì bị đòn hoài, nhất là anh Vĩnh vì tính tình anh ấy hơi cộc, riêng tôi, cả năm tôi đều chu toàn mọi việc nên chỉ được khen chứ ít khi bị chê, tôi còn được dượng tôi thưởng cho một cái đồng hồ nữa, tuy cũ nhưng vẫn còn xài ngon lắm.

Những tháng ngày ở Quy Nhơn tuy hiếu động chơi bời cùng các anh em nhưng tôi nhớ nhà kinh khủng, rất nhiều lần tôi chạy ra phiến đá sát bờ biển ngồi nhìn biển mênh mông, cứ nghĩ cuối cái bờ biển kia thì đã tới nhà mình chưa, mẹ với các anh chị giờ ở đâu? ra sao rồi? Nghĩ vậy rồi khóc một mình, khóc chán chê rồi quay vào nhà làm công việc và học bài. Việc học dượng tôi quy định ai lo việc học nấy chứ lấy đâu ra người mà kềm cặp hết cả 7 đứa? Do đó mà ai nấy đều tự học, tới giờ thì mỗi đứa ngồi một góc, tự biết học và làm bài xong mới đi chơi chứ dượng tôi không cần kiểm tra, chỉ cần cuối tháng hoặc cuối lục cá nguyệt dượng về xem học bạ là biết đứa nào chăm học hay không liền à. Vì buồn cho thân phận mình mồ côi, tôi quyết tâm học dữ lắm, tháng nào cũng đứng đầu lớp, Frère Gilbert chủ nhiệm lớp tôi khó đăm đăm thế nhưng mà vẫn thường hay nở nụ cười với tôi, bởi biết tôi mồ côi, rất ngoan và sùng đạo. Có một lần nọ, vì dượng tôi công tác ở Tuy Hòa lâu ngày không về, thấy tóc đứa nào cũng dài nên O tôi kêu ra O tôi hớt tóc thay cho dượng tôi, chẳng hiểu O hớt phía sau lẹm thế nào mà hôm sau tôi đi học bạn bè cười ầm chọc quê, tôi đâu có gương chiếu hậu mà nhìn phía sau được nên cứ tỉnh bơ, Frère Gilbert cũng cười hỏi ai hớt tóc cho tôi mà kỳ vậy? Tôi trả lời là vậy nên các Sư huynh ở đấy động lòng thương, họ kêu tôi làm một tờ khai gì đó về gia cảnh, rồi một ngày nọ, có một bà nào đấy ở Hội Từ Thiện, sau này tôi mới biết đó là Hội SCF - Save Children Frederation, đến gặp tôi tại trường, hỏi tôi cặn kẽ về gia cảnh rồi làm Học Bổng cho tôi, tôi nhớ làm giấy tờ gì đó là tôi có một Cha mẹ nuôi ở tiểu bang Maine bên Mỹ, họ có gởi hình cho tôi nữa và từ Hội SCF đó, tôi được nhận học bổng hàng tháng lên tới mấy trăm đồng, đồng thời họ gởi cho tôi nguyên một thùng lớn dụng cụ học tập các thứ, cứ ba tháng một lần là tôi được lãnh tiền học bổng ấy, tôi đưa về cho O tôi thì O tôi bảo con cứ giữ lấy, cất đấy mà xài chứ O không nhận, O vẫn đóng học phí đều đều cho tôi rồi.

Trường La San Quy Nhơn ngoài việc dạy học ra, thường xuyên tổ chức các buổi Hội thi như nấu ăn, khéo tay, thủ công, hội trại, thể thao rồi thi tìm hiểu về Cuộc đời Thánh Gioan La San. Tôi học có mỗi một năm mà tham gia không biết bao nhiêu cuộc thi ở đó vui lắm, phần thưởng thường là sách vở và các loại đồ chơi khá đắt tiền, mỗi lục cá nguyệt tức là nửa năm đều tổng kết và phát thưởng cho nên mỗi năm nhận thưởng đến 2 lần. Năm ấy lục cá nguyệt đầu tôi đứng nhất lớp nên được thưởng một chiếc xe đua thể thao đồ chơi bằng thiếc, to khoảng hai gang tay, vặn lên là nó chạy thấy thích ghê lắm, còn cuối năm thì tôi cũng đứng nhất, nhận phần thưởng sách vở và các dụng cụ học tập, trong đó có cuốn Từ điển Việt Anh dày cộm mà tôi vẫn giữ mãi về sau, trên đó ghi tên tôi và số danh bộ 1928 niên khóa 68-69. Nhà trường làm những buổi lễ phát thưởng rất long trọng và hoành tráng lắm, y như ngày nay chúng ta thấy trong những phim nước ngoài vậy, cho dù quy mô nhỏ hơn. Cuối năm nhận phần thưởng về, các anh tôi cũng lo lắm, vì tôi đứng nhất lớp Đệ Lục 2, còn anh Bình tôi đứng nhì lớp Đệ Lục 3, anh Vĩnh thì đứng hạng 5 hay 6 gì đó. Tối về dượng tôi biết được kết quả nên kêu hai anh tôi nằm xuống đánh mỗi người mấy roi. Tôi cũng khó xử trong tình huống này, đêm về chỉ biết an ủi các anh tôi mà thôi, tại dượng tôi đòi hỏi cao quá chứ hai anh tôi cũng học rất giỏi mà.

Cuối năm học ấy, vì nhớ nhà quá nên tôi xin O dượng tôi cho tôi vô Sài Gòn, O tôi không cho vì tôi còn nhỏ quá, đâu có đi một mình được, nhưng tôi quả quyết với O là con đi được, vì tôi đã đi máy bay 2 lần rồi, đã biết thủ tục ở sân bay như thế nào rồi nên tôi kể cho O tôi nghe vanh vách, O tôi vẫn kiên quyết không cho đi nhưng tôi cứ khóc và rền rỉ mãi nên cuối cùng O đành phải chấp nhận, nhưng bắt tôi phải hứa là sau hè phải ra lại đây học tiếp mới được, tôi hứa và thế là trong lòng mững rỡ vì sắp gặp lại được gia đình. O tôi vào lấy tiền đưa cho tôi đi mua vé nhưng tôi không lấy, tôi bảo con có tiền học bổng bấy lâu nay còn dành dụm đây, dư tiền mua vé và ăn xài nữa. Thấy vậy O tôi bèn đi chợ và mua cho tôi một cái va ly bằng vải da sọc ca rô để tôi đựng đồ. Thời gian ấy dượng tôi đi công tác ở Tuy Hòa nữa nên O tôi ở nhà một mình công việc rất bận rộn, cho nên tôi tự mình đi xuống phòng vé mua vé và đem về cho O tôi xem, biết được ngày đi, tôi sắp xếp áo quần và đồ chơi tôi lĩnh thưởng để đem về cho em tôi, còn những thứ dụng cụ học tập khác chất cả thùng của Hội SCF tặng, tôi để lại cho các anh tôi chứ không đủ sức mang về hết. Anh Hùng cháu dượng tôi lúc ấy nghỉ hè cũng đã về nhà rồi nên tôi nôn nóng vô cùng, mong cho thời gian mau qua để về nhà. Tôi nhẩm trong đầu bước đường mình sẽ đi, lên sân bay, mang theo cái giấy khai sinh và trình vé, vào sân chờ, lên máy bay và chờ cho đến khi hạ cánh, đến Sài Gòn sẽ có xe bus đưa đến Văn phòng gì đó gần Chợ Bến Thành, lên xe lam về Ngã tư Bảy Hiền, đến số 207 Lê Văn Duyệt thì xin dừng lại, xuống xe và cứ theo đường bên hông nhà cậu tôi, đi tắt ra khu Mai Khôi rồi quẹo về nhà dì tôi thôi. Tôi tự nhủ cũng không có gì khó lắm, cứ nhẩm trong đầu thế cho thuộc chứ thời ấy làm gì có điện thoại mà thông báo giờ giấc mình về?

Mọi việc y như dự tính, tôi đi chuyến bay 2 giờ chiều nên trưa hôm ấy, ăn cơm xong, tôi từ biệt O tôi và mấy anh lên đường trở về. O tôi lúc ấy bối rối lắm nhưng thấy tôi cương quyết quá nên đành phải cho tôi đi, chỉ thấy O tôi rưng rưng nước mắt dặn tôi là thế nào nghỉ hè xong cũng phải quay lại học hành, sau đó O quay vào nhà, tôi đi ra khỏi trại gia binh, đi bộ khoảng gần 2 cây số thì tới sân bay, và thế là một thằng nhóc chưa đầy 13 tuổi bắt đầu chuyến lưu lạc một mình, ôm cái va li và tấm vé, tôi cũng không sợ hãi gì lắm, thấy người ta trình vé chỗ nào thì mình cũng làm như vậy, họ ngồi chờ chỗ nào thì mình cũng ngồi chỗ đó, đến giờ máy bay đến đón khách, tôi coi số hiệu trên vé và đi theo mọi người, cũng soát vé trình vé như người lớn và lên máy bay ngồi. Hôm đó máy bay còn nhiều chỗ trống, tôi mua vé lúc chưa đủ 12 tuổi nên chỉ mua nửa vé, nhưng vẫn đủ ghế cho tôi ngồi một mình thoải mái. Mới ngồi một lúc thì có bà nào đó gương mặt nhân từ lắm, bà đến ngồi kế bên hỏi chuyện sao em còn nhỏ vậy mà đi một mình? Tôi nói hoàn cảnh của mình cho bà ấy nghe rồi bà ấy xoa đầu tôi, bảo tội nghiệp quá, bà ấy lấy xôi và bánh ra cho tôi ăn nhưng tôi chỉ ăn một miếng nhỏ vì đang nôn nao để về nhà. 

Khi máy bay đáp xuống thì bà ấy bảo: Con cứ đi theo dì nhé, tôi cắm cúi đi theo và cũng như dự tính, chúng tôi đến trạm vé hàng không Việt Nam ở chợ Bến Thành, dì ấy bảo có chắc chắn không hay là để dì ấy dẫn đi, tôi bảo là con biết mà rồi đi ra Bến xe lam, dì ấy đợi tôi lên xe lam rồi mới quay về. Xe lam chạy một lúc trên đường Lê Văn Duyệt, lúc gần tới Ngã tư Bảy Hiền thì tôi xuống, tôi theo đường bên hông nhà cậu tôi để đi tắt ra nhà dì tôi lúc trước, vì lúc đó tôi đâu có biết là gia đình tôi đã dời đi nơi khác, nên khi đến ngôi nhà nơi mà gia đình tôi trú ngụ lúc cuộc tổng tiến công lần 2 thì không thấy ai ở đó cả, gia đình tôi cũng không mà gia đình dì tôi cũng không, ban đầu tôi cũng hơi hốt hoảng, muốn khóc luôn rồi, nhưng định tâm lại nghĩ thì mình quay về nhà cậu hỏi thăm thôi, thế nào cũng tìm ra mà. Vậy là tôi quay lại đường cũ, tìm đến nhà cậu tôi. Thú thực, tại tôi thấy nhà cậu mợ tôi giàu quá nên tôi cũng rất ngại, lâu nay thình thoảng tôi mới ghé thăm thôi chứ không đến thường xuyên, bây giờ hoàn cảnh này thì buộc phải đến thôi. Đến nơi thì cậu mợ tôi vô cùng ngạc nhiên vì sao mà tôi dám đi một mình từ Quy Nhơn vào như thế, tôi nói tại con nhớ mẹ con quá nên con về, lúc đó cũng tối rồi nên mợ dọn thêm chén cho chúng tôi ăn chung với gia đình, còn cậu tôi thì ăn riêng ở trong phòng ở trên lầu 2. Tôi ngủ lại nhà cậu đêm ấy và sau khi hỏi thăm, tôi được biết là Dì Phú đã đi nơi khác ở, gia đình tôi về Hóc Môn ở một thời gian và hiện nay đang ở Mỹ Tho, gần Cư xá Nguyễn Thái Học là nơi bà con tôi ở, biết tin vậy nên sáng sớm hôm sau tôi xin phép về ngay. (TOP)

Về lại Mỹ Tho

Sáng hôm sau, tôi lên xe lam đi về xa cảng miền Tây rồi mua vé xe lô Minh Chánh về Mỹ Tho, vé xe lô Minh Chánh tuy mắc hơn xe đò màu đỏ một chút nhưng được cái là xe lô chở ít người nên chạy rất mau, giữa đường không đón khách, cứ khoảng 15 phút là có một chuyến nên rất tiện, tuy hơi tốn tiền một chút nhưng tôi còn tiền mà, cho nên cứ thế mà đi, chuyến này là tới nhà rồi nên đâu có sợ. Chỉ hơn một tiếng sau là về tới Mỹ Tho, tôi còn nhớ như in những quãng đường trong thành phố nên cứ thế mà đi bộ về Cư xá Nguyễn Thái Học, thằng đường ÔB Nguyễn Trung Long, đến Lê Đại Hành thì quẹo trái rồi vào hẻm, đến nhà cậu Thạnh là em mẹ tôi, cậu tôi đi làm nên chỉ gặp mợ, mợ cho tôi biết là gia đình tôi đã thuê nhà ở riêng rồi, tại số 46/3 đường Nguyễn Trung Long, thì ra ban nãy tôi đi ngang nhà tôi mà tôi không biết? Tôi mừng quá, cám ơn mợ tôi rồi quay ngược lại, một lúc thì tới nhà tôi không mấy khó khăn.

Hôm ấy chị cả tôi đi làm trễ nên khi gặp tôi, ai nấy cũng ngạc nhiên và chị tôi khóc quá chừng, tôi cũng khóc nhưng đoàn tụ được như vậy là sung sướng lắm rồi. Chị tôi nhìn thấy tôi mang cái áo mayô màu lính rộng thùng thình của dượng tôi cho thì khóc lóc kể lể sao lại để tôi như thế này, trách móc O tôi sao lại để tôi về một mình, tôi liền thanh minh với chị là O không cho về nhưng em nhất quyết quá nên O cũng đành chịu thôi, trách O như vậy là không đúng đâu, còn cái áo mayô lính thì trong nhà ai cũng mặc vậy thôi chứ đâu phải riêng mình em? Tôi hỏi mẹ đâu thì chị tôi bảo mẹ cùng em trai út tôi ra Đà Nẵng để bán nhà, sau đó sẽ vô ghé Quy Nhơn để đưa tôi về, không ngờ tôi lại về trước như vậy, thôi thì hôm nay chị nghỉ làm, đưa tôi xuống chợ để mua sắm áo quần cho tôi.

Bấy giờ chị cả tôi đã làm lại cái cửa hàng giặt ủi ở căn cứ Đồng Tâm nên thu nhập cũng khá. Tôi đâu biết rằng sau khi tôi đi, gia đình tôi chuyển về Hóc Môn rồi chuyển về lại Mỹ Tho, lúc đó chị kế tôi phải ở giúp việc cho Dì tôi, em gái tôi và mẹ tôi phải ở nhờ nhà dì khác, hoàn cảnh tang thương lắm, nên chị cả tôi sau khi tạm ổn định công việc thì chị tôi thuê nhà này đưa tất cả về, chị kế tôi vì dở dang nên không đi học lại được nữa, em gái tôi thì tiếp tục học tại trường Nữ Tiểu học. Chị tôi cũng ăn nên làm ra nên nhà có mua một xe Honda Dame mới tinh, chị tôi lại sắm sửa cho mẹ tôi dây chuyền vàng và thêm 2 cái lắc, mỗi cái 1 lượng cho mẹ tôi đỡ tủi. Do vậy mà hôm ấy chị tôi chở tôi xuống chợ rồi thích gì mua nấy, sắm cho tôi cùng lúc ba bộ áo ca rô áo trắng quần tây, rồi thêm 3 cái quần soọc nữa, rồi áo thun và xăng-đan các thứ, lột xác cho tôi từ đầu tới chân, bù lại cho tôi những tháng ngày gian khổ xa nhà. Hằng ngày chị tôi đi làm đến chiều mới về, còn chị kế tôi thì ở nhà lo cơm nước giặt giũ các thứ, tôi vui lắm và khi tôi nói O kêu em sang năm sau ra lại thì chị tôi bảo không, ở lại đây chị lo được. Lúc nào rảnh thì chị tôi lấy xe Honda ra cho tôi tập chạy, cho dù lúc đó tôi chỉ mới 13 tuổi, nhưng tôi chưa chạy được.

Được khoảng hơn một tuần sau thì mẹ tôi về, mẹ tôi bảo ghé Quy Nhơn nhưng lúc đó tôi đã đi rồi nên thăm O vài ngày rồi quay về ngay. Chiều tối hôm đó, chị tôi hỏi mẹ tôi là việc bán nhà ra sao rồi, mẹ tôi bảo đã bán rồi, khi hỏi thế tiền đâu thì mẹ tôi bảo đã tiêu xài hết rồi, chị tôi trố mắt ngạc nhiên vì sao mà lại tiêu hết một số tiền lớn như thế? Thì ra là những ngày ở ngoài ấy, bán nhà xong, mẹ tôi sẵn tiền nên hay đi đánh bài xì lác, tiêu sạch luôn rồi. Chị tôi hỡi ôi và khóc lớn tiếng: Mẹ ơi như vậy là mẹ giết con rồi. Chị tôi vừa khóc vừa chạy ra đường để đâm đầu vào xe tự tử nhưng may là lúc đó chẳng có chiếc xe nào, chúng tôi chạy ra can và kéo chị tôi vô. Mẹ tôi hối hận lắm, nhưng đã lỡ rồi, đành phải chịu thôi, may mà còn sợi dây chuyền và 2 cái lắc vàng chứ nếu không thì chắc chị tôi chết mất. (TOP)

Gioan 23

Rồi mọi việc cũng qua, chị tôi chuẩn bị cho tôi nhập học niên khóa mới, ban đầu định xin vào học Trường La San Thánh Giuse gần nhà thờ Chính tòa Mỹ Tho, nhưng sau nghe nói là có Trường Gioan 23 mới mở, do các cha trong Tiểu chủng viện Mỹ Tho điều hành nên chị tôi làm đơn cho tôi vào học ở đó, vì mới mở nên có nhiều điều kiện ưu đãi hơn. O tôi ở ngoài đó không thấy tôi trở ra học thì lo lắng lắm, không biết địa chỉ của tôi để viết thư vào hỏi, mãi về sau nhà tôi mới viết thư ra cho O bảo rằng tôi ở đây học được rồi, khỏi ra ngoài ấy nữa để cho O tôi yên tâm.

Thời gian này chúng tôi sung sướng lắm, chị tôi làm ăn cũng khá nên chúng tôi được ăn mặc tươm tất, lâu lâu lại đi chơi nơi này nơi nọ, qua bên Cồn Phụng Ông Đạo Dừa chơi và chụp hình mấy lần, chị tôi cũng cùng với bạn bè đi chơi đây đó, rồi chụp hình mang về vui lắm. Tôi vẫn nhớ chị tôi có những người bạn thân như chị Chinh con bác Chính dạy Anh văn, chị Thu gần nhà, chị Huyền rất đẹp và nhiều chị khác nữa. Cuộc sống gia đình tôi bắt đầu bình yên trở lại, tuy rằng trong thời chiến nên lâu lâu cũng bị pháo kích, nhưng thường thì đạn bay ngang nhà tôi bay về phía tiểu khu Định Tường, hầu hết là trúng vào cư xá Nguyễn Thái Học, chứ chúng tôi ở phía dưới này không sao cả. Hằng ngày tôi đi bộ đến trường khoảng gần 2 cây số, riết rồi cũng quen, tiền bạc mẹ tôi cho thì tôi dành dụm mua tạp chí Tuổi Hoa, mua truyện tranh các thứ, trên trường người ta phát sữa và bánh mì cho ăn không hết.

Năm ấy tôi vào lớp Đệ Ngũ trường Gioan 23, lúc đó Nhà trường đang thuê mấy dãy nhà thương xá gần Năm Nồi để làm phòng học, trong lúc đợi xây dựng ngôi trường khang trang hơn phía dưới gần thành phố hơn. Mới vào học nhưng tôi được Thầy Bùi Văn Hoàng nhận tôi làm con đỡ đầu, thầy dạy Anh Văn, đi tu ở Tiểu chủng viện Gioan 23 và thầy rất giỏi, đã lấy bằng Cử nhân Anh văn ở ngoài đời nên những giờ của thầy chúng tôi rất thích, thầy chỉ ước mong sao sau này tôi theo chân Chúa, đi tu như thầy thôi, nhưng việc Chúa chọn làm sao tôi biết được? Những thầy khác thì tôi không nhớ rõ lắm, nhưng bạn bè thì nhớ, nhất là con bé Trần Thị Kim Dung nó ngồi song song với tôi ở bàn đầu, nó học giỏi lắm, luôn thi đua với tôi nhưng không thắng tôi được, tôi quen bạn này mãi đến năm vào Đại học vẫn còn nhớ, có điều sang năm lớp Mười thì bạn ấy chuyển sang ban A nên không học cùng lớp với tôi nữa, nhà bạn ấy là Xưởng sửa chữa xe hơi Tân Hiệp Thành trên Năm Nồi, tôi có tới chơi nhà bạn ấy và lưu giữ tình bạn ấy vững bền đến mấy năm sau cho đến khi lên Đại học, mặc dù từ lớp Tám (Đệ Ngũ) tôi vẫn thường bị bạn bè cặp đôi tôi với bạn Dung ấy, nhưng chúng tôi trong sáng, có biết gì đâu, giữ mãi tình bạn ấy quý giá ấy cho đến khi trưởng thành. Năm Đệ Ngũ ấy, tôi bắt đầu say mê môn Toán đặc biệt hơn các môn khác, thầy Lý Hồng Chương dạy rất hay và cuốn hút, nhất là môn Hình Học, nhờ vậy mà từ đó về sau, tôi bị ảnh hưởng của thầy, bài tập bình thường thì không nói làm gì vì ai cũng làm được, nhưng những bài tập ở trong sách khác cao hơn thì tôi lại cứ thích lao vào tìm tòi, giải cho bằng được mới thôi. Phải nói đây là năm bàn đạp cho tôi để quyết đi theo ban Khoa học Toán sau này.

Học hết năm lớp Đệ Ngũ thì trường mới đã xây xong, chúng tôi dời về trường mới khang trang hơn và gần nhà tôi hơn. Trường có các sân rất rộng, có thể xếp hàng đứng cả gần hai nghìn học sinh, lại có sân banh, sân chơi đủ các thứ, cơ sở chính là một dãy nhà một trệt 4 lầu, bao gồm khoảng hơn 20 phòng học và một hội trường lớn ở trên tầng 4. Trường Gioan 23 bấy giờ bao gồm Đệ Nhất Cấp và Đệ Nhị Cấp, mỗi cấp từ 4 đến 6 lớp, mỗi lớp từ 60 cho đến 80 học sinh, cho nên sĩ số toàn trường lên đến ba bốn nghìn, chia ra sáng chiều nên cũng vừa đủ. Thời gian này Bộ Giáo Dục quy định đặt tên các cấp lớp lại cho nên sang năm sau, lớp tôi không còn kêu là Đệ Tứ nữa mà được kêu là Lớp Chín. Ấn tượng về các thầy trong lớp Chín đối với tôi là thầy Phạm Văn Phú dạy Toán và thầy Nguyễn Công Phúc dạy Vạn Vật. Thầy Phú cũng là một huynh trưởng Hướng đạo kỳ cựu, đi dạy thường đội nón beret đen và luôn nở nụ cười động viên học sinh khi ra một đề toán khó, còn thầy Phúc năm ấy khi dạy giờ cơ thể con người có đem theo một con chuột bạch để làm thì nghiệm, lần đầu tiên tôi thấy một thí nghiệm mổ xẻ như vậy trong trường, bởi đó là cái tâm của một thầy giáo, cho chúng tôi nắm vững kiến thức qua quan sát thực tế mà không ngại tốn kém. Lúc ấy tôi có rất nhiều bạn bè, và một số đã cùng tôi theo học đến Đại học, một số nghỉ giữa chừng hoặc theo Ban khác. Từ lớp Chín, ngoài số bạn trai thân thiết như Nguyễn Văn Hiền, Lê Văn Nghị, Nguyễn Văn Phúc... ra, tôi còn thân rất nhiều bạn nữ khác, ngồi kế bên Kim Dung là nhỏ Huỳnh Thị Cẩm Sương rất thích tôi, và cũng rất ganh với tôi từng chút một, từng môn học một. Nó học giỏi không kém gì tôi và hầu như đứng nhất bên nữ, tuy nhiên, đến cuối năm thì nó vẫn thua tôi, nên khi lãnh phần thưởng, không hiểu sao mà nó tặng lại tôi cuốn Từ điển dày cộm, chắc là để cho bõ tức. Tôi cũng rất mến nó vì nó có nụ cười rất hiền và dễ thương, tôi có đến nhà nó chơi mấy lần cũng các bạn khác, nhà nó ở gần rạch Bảo Định, là nơi tiếp giáp với vùng xôi thịt Việt cộng nằm vùng, sau này tôi mới biết ba nó cũng là Việt cộng nằm vùng và sau 75, nghe đâu nó làm thẩm phán hay gì đó ở Tòa Án Tỉnh Tiền Giang, còn tôi thì lưu lạc nơi vùng Kinh tế mới. Đời là thế thôi, nó là con nhà nòi Việt cộng mà.

Ngay từ năm lớp Chín, tôi bắt đầu gia nhập các sinh hoạt đoàn thể trong trường nhiều hơn, một trong các đoàn thể đó là Hướng đạo. Tuy năm lớp Chín, Thầy Hoàng không còn dạy Anh văn lớp tôi nữa, nhưng tôi biết thầy là một huynh trưởng Hướng đạo, thầy bảo tôi nên tham gia vào đi, vừa được học thêm các kỹ năng và sinh hoạt rất vui, thế là bắt đầu từ Chúa nhật đầu tiên sau ngày khai giảng, tôi mạnh dạn đến xin gia nhập Hướng đạo, được nhận vào trong đội Bạch Mã của một anh lớn hơn tôi 2 tuổi tên là Phước, nhóm chúng tôi mới vô khoảng ba bốn bạn chưa được đeo khăn quàng, nhưng cũng hớn hở lắm vì được học rất nhiều thứ và sinh hoạt hát hò rất vui. Lúc đầu tôi kêu Phước bằng anh, nhưng sau biết được Phước học 9A3 cùng cấp với tôi, tôi học 9A1, chúng tôi xưng tên với nhau thôi, mặc dù anh ấy đang là đội trưởng. Thiếu đoàn chúng tôi mang tên Cửu Long, do Thầy Nguyễn Công Nghiệp làm Thiếu trưởng, thành lập trước đó một năm, sinh hoạt khoảng gần 30 người.

Qua tháng sau thì tôi được Tuyên hứa tại trại Tân Hiệp và được đeo khăn quàng, tôi vui lắm, vì từ nay mình đã là một thiếu sinh chính thức rồi. Chúng tôi đi trại nhiều lần ở các xã quanh thành phố, mỗi lần đi trại là thêm một lần kinh nghiệm và phát triển thêm kỹ năng rất nhiều, tôi tham dự các cuộc thám du, đi bộ đường trường và nhận được mấy bằng đeo trên tay áo. Thiếu đoàn của tôi phát triển rất nhanh, chỉ mấy tháng mà đã gần 50 người chia làm 6 đội, và cũng chỉ mấy tháng sau khi tuyên hứa, tôi được chọn làm Đội trưởng đội Bạch mã ấy thay cho anh Phước, anh ấy lên làm Thiếu phó. Thời gian này, tôi có tham dự Trại Hướng đạo toàn quốc tại Chí Linh Vũng Tàu với hơn nghìn Hướng đạo sinh, lần ấy có Tổng thống Thiệu đến thăm và nói chuyện với hướng đạo sinh, chúng tôi dự trại bốn năm ngày gì đó và tham gia trò chơi lớn, đội tôi nhận được tín hiệu Morse trước tiên để lên đường đi tìm mật thư nhưng không được giải, vì thiếu hết trạm cuối cùng, đành phải chấp nhận thôi, như thế là cũng khá rồi. Thời gian này, tôi hoạt động hăng say lắm, đến cuối năm sau, tức là cuối năm lớp Mười tôi mới nghỉ để tập trung lo cho việc học, lúc ấy tôi là Đội trưởng nhất của Thiếu đoàn, mang ba vạch trắng trên túi. Tuy nghỉ sinh hoạt, nhưng cái tinh thần Hướng đạo vẫn còn mãi trong đời, vì như ai đó đã nói: Hướng đạo một ngày - Hường đạo một đời là vậy.

Những tháng ngày theo học ở trường Gioan 23 tôi luôn đạt kết quả rất tốt, từ lớp Tám trở đi, năm nào tôi cũng đứng hạng nhất, chỉ có năm lớp 12 là tôi đứng hạng 8 thôi, nhưng vì sĩ số học sinh trong lớp rất đông, thường là 80 người chứ không phải 40 như hiện nay, nên việc phấn đấu để đứng đầu lớp cực kỳ gian khổ và khó khăn, do đó mà kể từ niên khóa 72-73, nhà trường có ưu ái miễn giảm học phí cho những học sinh có thành tích xuất sắc năm trước làm cơ sở để thưởng cho năm sau, học sinh nào đứng hạng nhất năm này thì năm sau được miễn học phí 100% cả năm, hạng nhì 50% và hạng ba 30%, vì vậy mà từ lớp 11 trở đi, tôi không phải đóng một đồng học phí nào cả, bởi lớp Mười trước đó tôi đứng nhất. Nhờ thành tích học tập ấy mà từ năm Lớp Chín, tôi được Học bổng Quốc gia  của Bộ Giáo dục cấp, học bổng này cũng lớn lắm, mỗi năm lãnh 2 lần, thường thì mỗi lần đủ tiền để may 2 bộ đồ cùng các vật dụng học tập khác. Tuy là học sinh trường tư thục nhưng quyền lợi giống hệt như học sinh trường công lập, các Giáo sư thì cũng từ các trường công lập có tiếng như Nguyễn Đình Chiều, Lê Ngọc Hân ra dạy, cho nên tuy Gioan 23 là trường Tư thục nhưng cũng chẳng khác gì trường Công lập là vậy. Thời ấy, ngoài 2 trường công lập mà tôi nói ở trên thì Gioan 23 là ngôi trường có uy tín nhất trong hệ thống trường tư thục, dù thành lập sau các trường tư thục khác như Lasan Giuse, Hùng Vương, Thủ Khoa Huân, Đốc Binh Kiều… nhưng trường Gioan 23 đã nhanh chóng hội nhập và tạo được những thành tích xuất sắc trong học tập cũng như sinh hoạt, do đó mà Hiệu đoàn trường hay tiếp xúc và giao lưu với 2 trường công lập nói trên, từ năm lớp 11, tôi cũng nằm trong hiệu đoàn nhà trường nên quen biết khá nhiều thành viên hiệu đoàn của hai trường ấy.

Sang năm lớp Mười và Mười Một thì bạn bè tôi đông hơn, bởi tôi hoạt động Văn nghệ rồi Bích báo, rồi Thể thao nên quen biết nhiều, đồng thời các thầy cô cũng rất để ý tới tôi và rất yêu thương tôi. Tôi còn nhớ năm lớp Mười, khi bắt đầu lục cá nguyệt thứ nhì, tới giờ ra chơi thì Soeur thu ngân nhờ ai đó kêu tôi lại gặp soeur, tôi vừa ngạc nhiên vừa lo lắng, không hiểu chuyện gì xảy ra, vì tôi đã đóng học phí tháng này rồi mà, đến nơi, tôi thấy soeur cười và đưa cho tôi một bao thư, soeur bảo soeur trả lại tôi học phí tôi đóng tháng vừa rồi vì có người đã đóng cho tôi từ đây đến cuối năm xong cả rồi, tôi vừa ngạc nhiên vừa cảm động hỏi soeur ân nhân đó là ai vậy? Soeur chỉ cười và bảo người đó giấu tên, thấy tôi mồ côi mà học giỏi nên người đó đóng hết tiền học phí cho tôi từ đây đến cuối năm rồi. Tôi không biết nói sao nữa, chỉ biết cám ơn soeur và mang tiền về cho mẹ, lòng cứ phân vân không biết ai đã giúp mình, chắc chắn là thầy hay cô nào đó thôi, mà thầy thì là thầy nào? Suy nghĩ một hồi tôi mới nhớ ra là thầy Nguyễn Khắc Trung dạy Anh văn có lần hỏi gia cảnh tôi và tôi nói là cha tôi mất lâu rồi, chỉ một mình thầy biết thôi chứ không có thầy nào biết tôi mồ côi cả. Hôm sau tôi đến gặp thầy và hỏi có phải thầy đã giúp con không? Thầy cười và bảo không có. Tuy thầy nói không nhưng tôi biết chắc chắn là thầy, bao nhiêu năm trôi qua, sự việc ấy cứ làm tôi áy náy và mang ơn thầy nhiều lắm. Sau 75, tôi đi lưu lạc kinh tế mới nên tôi mất liên lạc tất cả, mãi đến năm 2020, nhờ facebook mà tôi tìm ra một người bạn học năm xưa và cho tôi biết địa chỉ số phone của con thầy, tôi liên lạc và biết được nhà thầy ở Sài Gòn, và năm 2021, tôi đến thăm thầy tặng thầy chút quà nhỏ để tri ân, thầy vẫn nhớ thằng Hùng Lân năm nào, và vẫn cười cười nói không phải thầy, khi tôi nhắc lại chuyện đóng học phí cho tôi nửa thế kỷ trước.

Năm 1970, chị cả tôi mua một căn nhà ở Cư xá Nguyễn Thái Học do dì tôi nhượng lại, gia đình tôi không còn ở nhà thuê nữa mà đã có một ngôi nhà của riêng mình. Thời gian này, chị tôi quen với một sỹ quan Mỹ và hai người sống chung với nhau. Anh ấy tên là Andrew B. Allen, làm Tùy viên tham mưu ở Tòa Đô Chánh Sài Gòn. Anh chị ở Sài Gòn và tôi có lên thăm một lần, đến năm 1971, lúc chị tôi mang thai thì vì công vụ, anh ấy phải quay về Hoa Kỳ, sau đó chị tôi sinh con, và tôi vẫn thường chở cháu đi học Nhà Trẻ Mẫu giáo. Tưởng rằng mất tích hẳn, nhưng đến năm 1989, chị tôi sang Mỹ định cư theo dạng con lai và đến năm 2001 thì tìm gặp lại anh, gia đình chị tôi được đoàn tụ như một phép mầu của Chúa. Tuy nhiên, sau khi anh tôi trở về Mỹ, chị tôi xin làm việc lại cũng khó khăn hơn. Năm 1972 chị tôi làm tổng đài Bưu Điện ở Cần Thơ, và quen với anh rể thứ hai của tôi. Anh chị làm phép cưới và sau đó đưa gia đình anh chị lên Pleiku sinh sống, anh rể tôi không quan ngại chị tôi có một đứa con lai mà vẫn yêu thương chăm sóc chị tôi và cháu như con của mình, nhưng kể từ ngày chị tôi theo chồng thì hoàn cảnh kinh tế gia đình tôi lại lâm vào cảnh ngặt nghèo, chị kế tôi phải ra Quy Nhơn làm thư ký trong công sở của O dượng tôi để kiếm thêm tiền lương dành dụm gởi về, mẹ tôi phải đi làm lao công quét dọn trong một doanh trại Hải quân, may mà lúc ấy các em tôi học trường công, tôi học trường tư nhưng được học bổng, không phải đóng học phí và còn được lãnh tiền học bổng quốc gia nữa, tôi biết hoàn cảnh gia đình mình lúc ấy rất khó khăn nên chăm học lắm, chiều nghỉ thì làm chuồng gà, mua gà con về nuôi để kiếm thêm chút ít, rồi mẹ tôi bày ra thêm bán sữa đậu nành nhưng cũng chẳng được bao lâu. Những thước phim khốn khổ năm xưa quay chậm vẫn in rõ trong trí nhớ của tôi, như những bước đường gập ghềnh khốn khó của đời người để trui rèn, để hun đúc chúng tôi lấy động lực mà tồn tại với cuộc đời.

Tuy khốn khó như vậy, nhưng bạn bè vẫn yêu thương và cảm thông, tôi vẫn có thời gian sinh hoạt văn thể mỹ ở trường, áo quần lúc ấy từ năm Lớp 11 trở đi toàn mặc đồ cũ, thỉnh thoảng có chú Bùi Nghi ghé chơi cho một bộ, hoặc anh Tam Hạ sĩ Hải quân thuê nhà tôi cho cái áo cái quần mang đi sửa lại mặc, ra đường hoặc đến trường vẫn tươm tất, không ai biết gia đình tôi lúc đó nghèo lắm đâu, cứ tưởng như gia đình tôi chắc cũng khá giả lắm, bởi tính tình tôi luôn vui vẻ lạc quan nên hoàn cảnh nào cũng thích nghi được cả. Năm lớp 11 cũng là năm làm bàn đạp cho năm sau phải thi Tú Tài, hầu hết chúng tôi đều ý thức điều đó, bởi nếu thi rớt thì phải vào quân trường thôi, bởi vậy trong năm lớp 11, tôi vẫn đứng nhất lớp, mặc dù tôi biết trong lớp có nhiều bạn giỏi hơn tôi như Lê Văn Nghị, Nguyễn Văn Ngọc, Tăng Chí Nguyên, Võ Văn Kiệt… nhưng họ học không đều nên khi thi, họ vẫn bị ít điểm hơn tôi. Tuy vậy, chúng tôi vẫn chơi rất thân với nhau, ngoài ra tôi còn chơi rất thân với lớp trưởng Lê Văn Minh tự là Minh Dê vì anh chàng ta rất đẹp trai, gặp con gái lúc nào miệng cũng tía lia, mới lớp 11 mà đã có bạn gái là cô Nhẫn nào đó rồi, Ngô Văn Minh tự Minh Bến Chùa, Võ Công Đức, Phan Thanh Tùng thủ môn, Võ Công Đức đạo mạo như thầy dòng, Huỳnh Hữu Đức ở chung cư xá với tôi, Nguyễn Văn Phúc tự Phúc Móm, Huỳnh Văn Phước tự Phước Cận bị khuyết tật một tay, Phan Quốc Hùng, Dương Hùng Dũng... Bên nữ thì ngày ấy có Nguyễn Thị Bảy, Võ Thị Huỳnh Nga, Nguyễn Thị Mỹ Dung, Tôn Nữ Minh Tuyên rất thân với tôi, trong đó có bạn Minh Tuyên là giỏi Toán nhất, thứ nhì là Mỹ Dung, bạn này ít nói, tính tình trầm lặng nhưng giỏi Toán lắm, sau này vào ban B Khoa học Toán cũng như tôi. bạn Bảy là em ruột của Nhà văn Dã Hạc đình đám thời bấy giờ nên giỏi Văn lắm, còn Huỳnh Nga thì chỉ được cái miệng tía lia thôi chứ học hành cũng làng nhàng lắm, nghe đâu mới lớp 11 mà đã có bạn trai là ông sĩ quan nào đấy rồi, tuy mỗi người một cá tính, nhưng chúng tôi rất hợp với nhau mỗi khi làm công tác gì trong lớp. Năm ấy chúng tôi làm báo tường rồi ra luôn một tập san nho nhỏ mừng xuân, tổng hợp các bài viết của các bạn, rồi trong lớp góp tiền lại để mua giấy in các thứ, sau đó phát cho mỗi bạn một cuốn làm kỷ niệm. Tôi có vẽ 2 bức hình lớn Pascal và Descartes khổ lớn bằng mực đen trắng để trang trí trong lớp, đến cuối năm thì  bị mất cắp, bởi lớp tôi học buổi sáng, buổi chiều lớp khác thì không biết ai lấy mất.

Tuy tôi lúc đó chỉ học lớp 11, nhưng tôi được bầu làm Hiệu đoàn phó của Hội Học sinh Nhà trường, phụ trách Văn Thể Mỹ, còn Hiệu đoàn trưởng là một anh học lớp 12. Trường tôi năm ấy tổ chức Giải Bóng đá thi đấu sôi nổi lắm, hầu hết là khối lớp 11 và 12, mỗi lớp một đội, còn khối lớp 10 thì chỉ có mấy đội thôi. Chúng tôi bốc thăm chia bảng như những cầu thủ chuyên nghiệp vậy, cũng vòng loại, tứ kết, bán kết như ai. Lớp tôi có bạn Thanh Tùng tuy mới 17 tuổi nhưng chụp gôn rất hay, mặc dù nhỏ tuổi nhưng có lần Tùng chụp gôn cho Đội tuyển Tòa Hành chánh Tỉnh, là đội bóng đứng đầu tỉnh Định Tường bấy giờ, đấu với đội Hải quan từ Sài Gòn về, do vậy mà Tùng hăng hái lắm, ngoài việc chụp gôn ra, Tùng còn đá vị trí nào cũng tốt nên nó làm Thủ quân đội bóng 11A1 lớp tôi, cho nên vừa vào giải, lớp chúng tôi thắng như chẻ tre, tôi chỉ biết bóng đá tơ lơ mơ thôi nhưng Tùng nó cũng sắp vào đội bóng, vì lấy đâu ra người cho đủ? Phúc Móm cho tôi mượn đôi giày đinh đá bóng nên mang vào thấy cũng ô kê lắm, sau này nó cho tôi đôi giày ấy luôn vì nó có mấy đôi lận.

Hôm trận chung kết, chúng tôi nhờ một thầy thể dục trường Nguyễn Đình Chiểu về làm trọng tài cho công bằng, trận chung kết lớp chúng tôi gặp đối thủ là lớp 12 mấy tôi không nhớ rõ, nhưng rõ ràng họ to con hơn chúng tôi vì hơn chúng tôi một tuổi. Trận đó tôi đá góc phải nhưng cũng chẳng mấy khi được nhận banh, mỗi lần nhận thì cũng phải chuyền cho đứa khác chứ tôi đâu đủ sức làm bàn. Lúc đầu Tùng nó muốn chắc ăn nên nó làm thủ môn, đối thủ mỗi lần xuống bóng đều bị nó bắt gọn cả, sang hiệp hai nó thấy tình hình coi bộ khó ghi bàn quá nên nó bảo: Lân, mày xuống chụp gôn đi, để tao lên đá mới được, tôi bảo tao đâu có biết chụp, nhưng nó bảo mày cứ đứng đó có bọn tao bọc lót hết rồi, quả thật, có nó lên đá thì trận đấu sôi nổi hẳn lên, tấn công ào ạt còn tôi thì đứng dưới này chẳng có việc gì làm, suốt cả hiệp mà chỉ được chụp banh một lần do đối phương để bóng trôi rề rề trước mặt, tôi chỉ việc ra ôm về chứ chẳng chụp choẹt gì cả, nó động viên tôi được lắm được lắm, sau nữa được sút bóng lên một lần do đội nhà đưa về, chỉ thế thôi, vậy mà lớp tôi cũng thắng lớp 12 với tỉ số 2-0 đoạt chức vô địch toàn trường, một trái do Tùng ghi bàn, còn trái kia nó chuyền qua một bạn khác ghi bàn. Xét ra tôi chẳng được tích sự gì ráo nhưng cũng được hân hoan nhận cúp vì mình nằm trong đội bóng mà.

Lớp 11 đối với tôi thật nhiều kỷ niệm, bởi không căng thẳng như lớp 12 vì phải thi Tú Tài, mà cũng như là đàn anh trong trường rồi, may ra còn mỗi một năm này là hoạt động chứ sang năm 12 thì phải bỏ tất cả để tập trung cho việc học thôi, do vậy mà sau khi tôi xin nghỉ hướng đạo vào cuối năm lớp 10, tôi quen rất nhiều huynh trưởng, thấy họ vào sinh hoạt bên một đoàn thể mới, gọi là Du Ca Việt Nam, nên tôi cũng hỏi han xem thế nào vì tôi có máu ca hát trong người tự lúc nào rồi, ngờ đâu Phúc Móm bạn tôi biết vậy liền lôi tôi theo, cùng bạn Phước bị khuyết tật một tay cũng tham gia phong trào này, và thế là tôi thích quá, xin gia nhập và buổi sinh hoạt đầu tiên của chúng tôi vào một đêm tháng chín tại Sân Vận Động Mỹ Tho, hầu hết các anh chị đều lớn tuổi hơn tôi, vì họ là sinh viên mà, nghe đâu có anh Toàn và chị Quyên ở Sài Gòn về, chỉ có bọn tôi là hơi nhỏ tuổi nhưng tôi hăng hái lắm, lại biết chơi guitar nên những buổi họp mặt sinh hoạt bên đống lửa trại ngoài sân vận động Mỹ Tho và khuôn viên trường Nam Tiểu Học rất là sôi nổi, các ca khúc du ca ngày đó của Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang như Anh Em Tôi, Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, Đường Việt Nam… tôi vẫn thuộc lòng mãi cho đến tận bây giờ, âu cũng là những kỷ niệm đáng nhớ cho một thời trẻ tuổi. 

Học xong lớp 11, tôi vẫn đứng nhất lớp, và đó cũng là một năm học sôi động và đáng nhớ nhất trong cuộc đời học sinh của tôi, bởi qua năm sau thì có lẽ mọi sinh hoạt văn thể mỹ đành phải khép lại để dành thời gian cho việc học, việc thi cử. Tình hình chiến sự lúc ấy cũng đang gay cấn lắm, sau đợt tổng động viên năm 1972 thì hiện tại quân đội cũng rất cần người, đã có lệnh tất cả những người học lố tuổi sẽ phải đi quân dịch, cho nên tôi rất chú tâm để nhất quyết phải thi đậu để lên đại học, có vậy mới khỏi đi lính. Năm ấy tôi cùng các bạn nhận được thông báo là Trường Nguyễn Đình Chiểu sẽ xét tuyển các học sinh trường tư thục vào học trường công cho khỏi mất tiền, tất cả các học sinh lớp 11 có thứ hạng từ hạng nhất cho tới hạng 3 sẽ được tuyển thẳng vào học lớp 12 tại trường công lập này, những người khác thì phải qua một kỳ thi tuyển. Bạn bè tôi rủ tôi đi bảo rằng học Nguyễn Đình Chiểu oai hơn vì nó là trường công lập có tiếng, nhưng tôi nghĩ sang năm lớp 12 tôi được miễn học phí thì có khác gì trường công đâu? Các giáo sư giỏi hiện đang dạy ở trường công lập Nguyễn Đình Chiểu như Nguyễn Hữu Thông, Nguyễn Quốc Thông, Bùi Văn Chi, Nguyễn Văn Kiến, Nguyễn Huy Đề đều dạy tại trường Gioan 23 chúng tôi thì chúng tôi được học không khác chút nào, do vậy mà tôi ở lại, còn các bạn khác như Võ Công Đức đứng hạng ba nên tuyển thẳng, Huỳnh Hữu Đức thì thi tuyển và cũng đậu. Tôi nghĩ mình ở Gioan 23 thân quen bao lâu nay rồi nên cũng chẳng muốn chuyển trường làm gì, ăn thua là mình phải quyết tâm thi đậu thật cao vào năm sau.

Cuối năm đó, tôi quen với chị Ký học trước tôi một lớp, chị ấy rất quý tôi và rất gần gũi với tôi, thậm chí có vài người thấy gần gũi thân mật quá nên cứ tưởng tôi và chị ấy là một cặp, vì cứ nghe chị ấy xưng tên với tôi thôi, nhưng tôi thì vẫn luôn kêu bằng chị. Chị ấy bảo tôi tham gia ca đoàn Nữ Vương ở Nhà thờ Quân đội đi, cái gì chứ việc hát hò là tôi chấp thuận ngay, vì ca đoàn này cũng ở Nhà thờ chúng tôi thường đi lễ nữa. Buổi gặp gỡ đầu tiên, tôi rất ấn tượng với Nhạc sĩ Phạm Trường là ca trưởng ca đoàn Nữ Vương, bác ấy nghe tôi hát thì có vẻ vừa lòng lắm, nhưng sự ấn tượng ấy không bằng sự ngạc nhiên của tôi khi gặp Vy Thị Minh Hương, một cô bé khá dễ thương, bạn của Thu Liễu cháu tôi, cũng ở trong ca đoàn, nó cười vui vẻ và làm như thân với tôi lắm, với lại hồi đó tôi cũng khá có tiếng tăm nên cũng quen khá nhiều bạn gái, tuy nhiên chẳng có ai là “bồ” chính thức cả. Bạn Minh Hương này tôi đã gặp và nói chuyện nhiều lần ở nhà cháu tôi, và cháu tôi cũng vẫn thường cặp đôi tôi với bạn ấy làm nó đỏ mặt, chẳng hiểu có hay không. Tôi tuy dạn dĩ thế nhưng nhiều khi cũng cù lần lắm, thấy nó vui vui thì mình cũng tán chuyện chứ chưa nói chuyện yêu đương gì, nhưng kể từ ấy ở ca đoàn, nhiều khi nó cứ làm ra vẻ nó là bạn gái của tôi làm tôi rất bực, mà thật, nó cũng đẹp gái và dễ thương, hát cũng hay, có điều như ngày nay người bảo là hơi bị chảnh ấy. Tuy nhiên trong ca đoàn lại có chị Ký ấy lại gần gũi với tôi hơn làm nó ghét ra mặt, chị ấy mỗi lần tập hát xong cứ đứng lại nói chuyện với tôi rất lâu, chủ yếu nói chuyện học hành lớp 12 khó thế nào vậy mà, chị ấy còn rủ tôi lên nhà chơi, rồi rủ tôi đi xem phim, có điều chị ấy cũng ý tứ, sợ tôi xem thường nên chị ấy mời một người bạn chị ấy cùng đi xem nữa chứ không phải riêng hai chúng tôi. Sau này tôi thấy chị Ký ấy lại thân thiết với chú Loan, một hạ sĩ quan làm việc chung với cha của chị ấy, chú Loan hơn chị đâu khoảng 15 tuổi và nghe đâu sau đó, hai người thành vợ chồng, lúc ấy tôi đã là sinh viên đại học rồi.

Còn bác ca trưởng Phạm Trường thì chỉ sau một thời gian ngắn, bác thấy tôi có khả năng hay sao ấy mà sau mỗi lần tập hát bác kêu tôi ở lại để bác huấn luyện đệm đàn Harmonium và nhạc lý, tuy tôi cũng khá rành về nhạc lý và chơi đàn guitar cũng khá rồi, nhưng bác luyện thanh cho tôi và cách thể hiện của ca viên thế nào cho đúng, nhờ đó mà chỉ sau vài tháng, tôi đã tự solfaire dễ dàng và mỗi khi đêm về, tôi tự học ký âm và tự ký âm một đôi bài cho quen, tôi vẫn nhớ bài đầu tiên tôi ký âm đó là A Time For Us của Henri Mancini trong phim Romeo & Juliet, thời gian sau đó khi có nhạc bài hát này xuất bản, tôi xem lại so sánh thì mới biết là mình viết sai be bét, cao độ thì tôi biết solfaire nên chính xác rồi, nhưng trường độ thì sai nhiều chỗ quá, bởi đàn được là một chuyện, nhưng ký âm một bản nhạc lại là một chuyện khác. Dần dà nhờ đi tập hát mà tôi có thêm kinh nghiệm, đến năm lớp 12 thì tôi ký âm vững vàng rồi, bởi tôi có đưa cho bác Trường xem và hầu như không còn bị sai trường độ nữa. Trong chuyện này, tôi thấy rõ ràng là ơn Chúa, vì chính Chúa đã giúp cho tôi khả năng quý giá này, nó vẫn kéo dài đến ngày hôm nay và tôi vẫn còn làm việc đó, tôi có thể nhìn một bài hát mới toanh và hát rất nhanh mà không cần xướng nốt trước, y như mấy cái nốt nhạc nó ở sẵn trong đầu tôi vậy, thăng giáng gì cũng nằm sẵn trong đó, hoặc tôi có thể nghe một câu hát bất kỳ, tự dưng trong óc nó hiện ra đó là nốt gì, cung gì và dễ dàng ký âm ra ngay, ngoại trừ những bài nhạc ngoại quốc khó vì đảo phách nhiều nên tôi viết lại hơi lâu, chứ những bài nhạc đời hoặc thánh ca thông thường thì nghe qua, tôi sẽ ký âm lại rất mau, chắc chắn là Chúa đã soi sáng cho tôi chứ về âm nhạc, năm lớp 9 tôi có theo học guitar tại lớp nhạc Chim Quê Hương của cậu tôi là Nhạc sĩ Bùi Tuấn Anh, chỉ biết guitar là chính chứ nhạc lý thì phổ thông thôi, chưa chuyên sâu vào ký âm pháp. Với lại sau này tôi biết, có rất nhiều người tốt nghiệp nhạc viện hẳn hoi nhưng ký âm cũng vẫn còn mất thời gian lắm, họ thấy tôi ký âm nhanh như vậy nên họ cũng rất ngạc nhiên. Tôi nghĩ nếu không có Chúa thì làm sao tôi có thể thực hiện chuyện đó nhanh như vậy được? (TOP)

Dòng Tên

Cuối năm lớp 11, cha Tuân là linh hướng của tôi thấy hoàn cảnh tôi mồ côi khó khăn quá nên cha có đến thăm, lúc ấy có chị kế tôi từ Quy Nhơn về, cha hỏi trình độ chị tôi thế nào, có thể làm thư ký văn phòng được không? Chị tôi bảo là được vì tuy chị tôi mới học xong Đệ Ngũ (lớp Tám) thôi, nhưng trình độ chị tôi vững chãi lắm, chị cũng biết một ít tiếng Pháp, chị viết chữ rất đẹp và chuẩn chính tả, đã kinh qua làm thư ký ở Quy Nhơn rồi, cha bảo vậy thì năm tới đây trường sẽ tuyển thêm 1 thư ký văn phòng vì quy mô trường bây giờ lớn rồi, cần thêm người, nhưng cha rất công bằng, bảo rằng chị tôi cần phải thi tuyển như những người khác, chị tôi đồng ý, và năm ấy chị tôi được tuyển vào làm thư ký trong trường, ba bốn người kia bị loại họ cũng buồn lắm. Và cũng kể từ ngày đó, gia đình tôi đỡ hơn một chút vì đã có chị tôi đi làm có thêm thu nhập, lại được làm ở gần nhà chứ không phải ra Quy Nhơn nữa. Chị tôi viết thư ra cho O dượng tôi ở Quy Nhơn báo tin là chị sẽ ở lại làm trong này, không trở ra đó nữa.

Cũng vào hè năm ấy, Cha Tuân là Giám học của Trường gọi tôi lên. Cha cũng là cha linh hướng của tôi nên rất quan tâm tới tôi, muốn dẫn dắt tôi theo con đường tu trì, do đó, khi có Linh mục Nguyễn Thế Minh là Giám Đốc Nhà Ứng sinh Dòng Tên đến chiêu sinh ở trường tôi, cha giới thiệu tôi cho cha Minh và hẹn gặp ngài. Đến ngày hẹn, cha Minh nói chuyện với tôi rất thân mật và thẳng thắn về ý hướng của tôi, có muốn dâng mình cho Chúa không. Tôi bảo rằng có, mặc dù thời gian ấy tôi quen rất nhiều bạn gái, tuy nhiên tôi cảm thấy việc dâng mình cho Chúa nếu được thì tốt biết mấy. Cha khảo tôi sơ lược về giáo lý và cuộc sống, cả về sinh lý thể chất và tâm lý tuổi mới lớn nữa. Yêu cầu của cha là nói thật, không giấu diếm. Khi cha hỏi về các yếu tố thể chất, sinh lý tuổi mới lớn, có sao tôi nói vậy, rồi cha hỏi tôi có bạn gái chưa? Tôi trả lời là chưa có, cha lại hỏi chưa có nhưng có các biểu hiện yêu thích hoặc để ý đến hoặc muốn nắm tay một cô gái nào đó không, tôi trả lời là có, bởi ngày ấy tôi có nhiều bạn gái và quả thực nhiều khi cũng hơi hơi yêu hoặc để ý đến người nào đó như con bé Minh Hương chẳng hạn, nó tuy hơi chảnh nhưng cũng rất dễ thương, và bé Mỹ em ruột chị Ký cũng vậy, nó đối với tôi rất nhẹ nhàng chăm chút và tôi đoán là nó cũng rất có cảm tình với tôi, cũng như Loan và Ngọc Huệ học lớp 9 và Bích tóc thề học thua tôi một lớp, tôi cũng rất có cảm tình với họ, nghe tôi trả lời thật lòng như thế, cha bảo đúng rồi đấy, con đừng ngại ngùng gì cả, vì những cảm giác đó chứng tỏ là con nói thật, con có thể chất của một người bình thường, chứ nếu con trả lời cha là không có thì một là con nói dối, hai là cơ thể con bất bình thường, vì ở độ tuổi như con bây giờ phải có những điều ấy chứ không sẽ là bất bình thường, và những người bất bình thường như vậy thì Nhà dòng không cần. Sau cuộc nói chuyện riêng tư ấy, cha chấm tôi cùng với 5 người khác ở Mỹ Tho sẽ đến ứng tuyển tại Nhà Ứng sinh Dòng Tên Thủ Đức, trong đó có ba người bạn của tôi là Nguyễn Công Phước, Bùi Mình Tâm và Đoàn Văn Cảnh, còn hai người kia học ở trường La San Giuse.

Đến ngày ứng tuyển, Cha Tuân linh hướng của tôi và Thầy Bùi Văn Hoàng linh hướng của tôi vui lắm, mong rằng tôi sẽ nối gót các ngài để đi tu dâng mình cho Chúa, cả 6 chúng tôi lên đường và gặp nhau dự Linh Thao 7 ngày tại Dòng Tên, lúc này không thấy cha Minh đâu mà chỉ gặp cha Manso người Ý phụ trách cuộc khảo hạch này. Tuy là người Ý nhưng cha nói tiếng Việt rất rành và giảng lễ cũng bằng tiếng Việt. Cuộc khảo hạch tiến hành riêng từng người và trong thời gian Linh thao, tất cả chúng tôi không được phép nói chuyện, dù chỉ là một từ cũng không được, mỗi người ở riêng một phòng tự mình cầu nguyện riêng với Chúa, để thâm nhập ý Chúa xem Chúa muốn mình đi tu hay không, cha nói rõ là đi tu hay không cũng đều tốt cả, đi tu để dâng mình cho Chúa là tốt, nhưng sống đời giáo dân vẫn tốt vì cha mẹ chúng ta cũng đều tốt cả mà. Khi cần thì cha sẽ gọi từng người lên nói chuyện. Những cuộc nói chuyện với cha Manso bàn về tu đức và trắc nghiệm trí thông minh IQ, không ai biết kết quả của ai cả, cứ thinh lặng cầu nguyện trong 7 ngày, giờ cơm cũng thinh lặng ăn, đi lễ và đọc kinh cũng chỉ là mở miệng ca tụng Chúa chứ không nói lời gì khác. Đến ngày thứ 8 thì chúng tôi ra về, không ai biết kết quả mình đậu hay rớt, mãi đến hai ba tuần sau tôi mới nhận được thư của nhà dòng bảo rằng tôi đã trúng tuyển, còn các bạn khác cũng nhận được thư là không đậu. Tuy không đậu, nhưng sau này Phước và Tâm bạn tôi đi tu triều, sau này Phước xuất tu lập gia đình, còn Tâm thì sau khi vượt biên đi tu tiếp và được thụ phong linh mục tại Hoa Kỳ, hiện là cha sở của một họ đạo ở New York.

Đến ngày nhập dòng, tôi từ giã cha linh hướng cùng bạn bè một mình xách va li lên Thủ Đức, tôi được báo là ứng sinh không cần mang tiền bạc gì theo cả vì tất cả chi phí ăn ở đều có nhà dòng lo. Bấy giờ Nhà Ứng sinh Dòng Tên chỉ có một lớp duy nhất gồm 28 người do cha Nguyễn Văn Lý phụ trách trực tiếp việc ăn ở học hành và tu trì, anh Nguyễn Thanh Hoài làm lớp trưởng, chúng tôi chia ra làm 3 phòng, mỗi người một giường và theo đúng lề lối sinh hoạt của Nhà Dòng. Về Văn hóa, chúng tôi mỗi ngày đi bộ đến trường Don Bosco gần đó, sau giờ học thì về Nhà Dòng, buổi chiều sinh hoạt tu đức, sau khi làm bài xong thì đi đá bóng hoặc bóng chuyền, ai thích môn nào thì chơi môn ấy. Việc học mỗi người tự lo và các cha không xen vào, vỉ tất cả chúng tôi, những người được chọn vào dòng đều là những học sinh xuất sắc, đứng nhất nhì lớp ở trường nên các cha tin tưởng về học lực mỗi người lắm, nhưng thường thì đôi ba ngày, cha lại gặp chúng tôi một lần, gặp riêng từng người và nói chuyện về chí hướng tu trì cũng như khuyến khích mỗi người chúng tôi tìm hiểu thánh ý Chúa.

Cha Lý sẽ làm việc riêng từng người, hôm ấy cha nói chuyện với tôi bảo rằng không phải các thầy được chọn vào đây là đã được gọi là đi tu đâu, mà đây là thời gian tìm hiểu thánh ý của Chúa, thử xem ý Chúa muốn mình làm gì, nếu có gì khuất tất hoặc còn hoài nghi về sự chọn lựa của mình thì cứ cầu nguyện tiếp tục để hiểu thánh ý của Chúa, vì thà mình quyết định ngay từ bây giờ chứ đừng để sau này thành linh mục mà quyết định xuất tu thì lúc đó tội lỗi nặng nề lắm, không xóa được đâu. Tôi cũng liên lỉ cầu nguyện và cảm thấy mình vẫn còn vướng bận nhiều quá, thứ nhất là về mặt tình cảm, hóa ra cứ cảm thấy vẫn còn phân vân, vẫn còn nhớ người này người khác, như vậy thì có nên không? thứ hai là tủi, tủi vì thấy các bạn khác ai ai cũng góp tiền, mặc dù nhà dòng không đòi hỏi vì nhà dòng đứng ra lo hết, nhưng tôi vẫn cứ áy náy vì nhà mình nghèo quá, mình chẳng đóng góp được đồng nào cả, sách vở thì có phần thưởng năm ngoái nên khỏi mua. Bao nhiêu sự lo âu và tự mình xét đoán như vậy nên cái tâm bất an, do đó mà chỉ vào dòng có hơn một tháng, tôi lên gặp cha Lý và trình bày tất cả tâm tư và nỗi lo âu của mình, bảo rằng con thấy chưa xứng đáng nên xin cha cho con về. Cha Lý phân tách cho tôi mọi thứ để tôi hiểu rồi cha bảo Cha tôn trọng quyết định của từng người, cha có nói một câu làm tôi nhớ mãi: “Sau này cuộc đời có gian nan khổ ải thì thầy đừng trách Chúa nhé”. Tuy cha cười mà nói câu ấy nhưng tôi thấy câu nói ấy thấm đẫm cả cuộc đời tôi khi tôi quyết định ra khỏi dòng như vậy. Lúc ấy tôi chỉ biết tâm niệm với Chúa rằng dù có đi tu hay không thì con cũng sẽ gắng mãi sống tốt. Tôi từ giã cha và mọi người rồi quay về. Mãi đến tận tuổi này, gần cuối đời rồi, tôi vẫn chưa hiểu quyết định như thế đã là xác đáng hay chưa nữa, nhưng đã quyết định rồi thì phải chấp nhận thôi, chỉ mong Chúa thương mà dẫn dắt con dù đời sống tu trì hay đời sống tông đồ giáo dân cũng phải sống tốt và làm tròn nghĩa vụ của mình. (TOP)

Tú Tài IBM

Về lại Mỹ Tho, mẹ và chị kế tôi thấy vậy thì buồn vô cùng, tôi cũng buồn vì đã làm gia đình thất vọng, tôi có an ủi mẹ thôi thì không đi tu được song con sẽ cố gắng năm nay chắc chắn thi đậu cho mẹ vui, nhưng người buồn nhất là thầy Bùi Văn Hoàng linh hướng của tôi, cha Tuân linh hướng cũng buồn nhưng cha chỉ cười nhéo tai tôi thôi, và sau đó tôi lại tiếp tục học Gioan 23 vào lớp 12B1 ban Anh văn, học phí thì khỏi đóng vì năm ngoái tôi đứng nhất nên miễn 100% học phí cả năm rồi. Tôi tâm niệm thôi thì đi tu không được thì tôi sẽ gắng học, đậu thật cao để khỏi phụ lòng gia đình. 

Năm học lớp 12 cuối cấp đến với tôi có vẻ ít sôi nổi hơn, vì lúc đó tôi không chuyên tâm tranh đua với các bạn nữa mà chỉ cố gắng trau dồi thật nhiều kiến thức cho mình, vì Tú Tài năm đó sẽ thi bằng phương pháp trắc nghiệm, trải đều hết tất cả các môn, bạn bè đứa nào cũng thâm trầm, gặp nhau cười nói một chút rồi thôi chứ không hăm hở xông xáo như trước, bởi đứa nào cũng thấy một tương lai phía trước dành riêng cho từng người, tốt đẹp hay gian nan là do mình. Tuy tôi vẫn làm Hiệu đoàn phó của trường nhưng năm đó chỉ tổ chức 2 đêm văn nghệ Noel và Tết mà thôi, không bóng đá, nhưng chúng tôi có tổ chức mời được Nhà văn Duyên Anh đến nói chuyện về tác phẩm Ngựa Chứng Trong Sân Trường của ông, với lại bấy giờ chúng tôi đã là đàn anh của trường rồi, nên chỉ bày ra bích báo để các em lớp dưới làm thôi, cả 6 lớp 12 trong trường bạn nào cũng đều trầm tư như thế. Tuy vậy, cái máu văn nghệ trong tôi vẫn còn nên tuy không hăm hở như trước kia, tôi vẫn tham gia hát hò và hướng dẫn xây dựng chương trình xôm tụ không kém những năm trước đó.

Thấy tôi không đi tu nữa mà ở lại trường, lúc đó nhiều bạn gái quý tôi lắm, tôi chỉ dám nói quý thôi chứ không dám nói yêu, bởi trong đó có tới mấy cô cứ nhắm đến tôi hoài, yêu hay không thì tôi chả biết, nhưng bằng cái tuổi ấy dường như cái tâm sinh lý nẩy nở, ai cũng muốn có được một người khác phái để tâm tình, để chia sẻ, chứ không phải để nghĩ đến yêu nhau xây dựng gia đình. Cùng lúc tôi có đến mấy người bạn gái, Vy Thị Minh Hương thì khỏi nói rồi vì nó ở ca đoàn tôi, gặp thường xuyên và cũng đỏng đảnh thường xuyên, ngoài nó ra thì có Huỳnh Thị Ngọc Huệ, thua tôi hai lớp, nó đi Legio ở Nhà thờ Chính tòa, gặp tôi rồi đi đâu nó cũng nhận nó là em gái tôi, vì gương mặt nó có nét hao hao giống tôi, mà em gái kiểu này nguy hiểm quá, tôi nói chuyện với cô nào thì nó cũng xen vào cho rằng nó là em ruột tôi, nhiều lúc nó gần gũi tôi quá làm tôi phát sợ, nó thường nắm tay hoặc bá vai tôi tỉnh bơ mà không ngại ai nói. Tôi biết miệng thì em gái thôi nhưng nó yêu thiệt rồi chứ chẳng chơi, lúc nào nó cũng cưng yêu chìu chuộng tôi từ miếng quà vặt cho đến ly nước uống, làm như lo cho anh ruột nó lắm, thậm chí nó đến nhà tôi chơi thường xuyên, gặp mẹ tôi nó kêu má, gặp chị tôi nó kêu chị Tư tỉnh bơ luôn, người ngoài nhìn vô chẳng thấy em gái đâu mà chỉ thấy một cô con gái hơ hớ nhà giàu, mỗi lần đến nhà tôi chơi chạy xe máy, mang minijupe, nói năng tỉnh bơ như ruồi vậy, mười người thì hết chín bảo rằng nó là bồ của tôi chứ em iếc gì? Có lần nó đến gặp anh ruột tôi ngoài cửa, anh tôi hỏi cô đến tìm ai? Nó bảo dạ em tìm anh Lân. Anh tôi hỏi cô là gì của anh Lân? Nó trả lời tỉnh bơ Em là em ruột của anh ấy. Anh tôi mắc cười quá, bảo rằng tôi là anh ruột của thằng Lân đây, lúc đó nó mới hết hồn, xin lỗi rồi rít. Mãi về sau, khi tôi đã lập gia đình rồi, tôi có về Mỹ Tho gặp nó một lần, nó rưng rưng nước mắt trách tôi là sao tôi lập gia đình mà không mời nó, không cho nó biết? Tôi ậm ừ cho qua chuyện rồi thôi.

Ngọc Huệ đối với tôi như vậy, nhưng lúc đó tôi lại quen Kim Loan học cùng cấp với nó nhưng ở lớp khác, nhỏ Loan này được cái nhí nhảnh dễ thương chứ răng khểnh mấy cái nên không đẹp lắm, nó hát song ca với tôi trên sân khấu nên hai đứa gặp nhau thường xuyên, hình như lúc đầu tôi cũng nghĩ mình đã yêu nó, nhưng sau đến nhà nó chơi mới biết nó là con ông Trung tá Tiểu khu trưởng hay phó gì đó nên tôi biết phận mình nhà nghèo lại mồ côi, rút đi cho êm chứ không màng gì tiến tới với nó nữa. Lúc ấy đã yên đâu, lại có nhỏ Tố Hoa em của cô giáo Trang, là bạn của Ngọc Huệ, cứ rảnh ra là lại nhà thăm tôi, mỗi lần đến là diện đồ dữ lắm, thời đó mà nó mang quần soọc áo voan đi xe đạp mini đến nhà tôi, vì lịch sự nên tôi phải tiếp, nhưng nó đến hoài khiến tôi ngại quá, thực sự thì tôi chẳng có thích nó, bởi nó hơi bị lùn, nhưng nếu mình nói thẳng ra thì cũng làm tổn thương người ta. Có lần tôi đang làm bài trong nhà thì nó đến, gặp chị cả tôi từ Pleiku về để chuẩn bị sinh cháu, chị tôi thấy nó ăn mặc mát mẻ quá lại nghe tiếng nó õng ẹo nên nghiêm mặt lại bảo: Lân nó đang mắc học bài rồi, năm nay là năm thi tú tài! Thấy vẻ mặt hình sự của chị tôi như thế, nó chào và bỏ đi một nước, từ đó về sau nó chỉ gặp tôi ở trường hoặc nhà thờ thôi chứ nó không bao giờ dám đến nhà tôi nữa.

Vốn tính sôi nổi, nhưng tôi lại hay có cảm tình với những người nhẹ nhàng đằm thắm thôi, do vậy mà hầu như những người ấy chẳng biết bạn gái tôi là ai, bởi trong số những người ấy, chẳng có ai đằm thắm cả, ngay cả một cô bé khác tên Vân chẳng hạn, nhỏ Vân này là em của chị Thành, bạn của chị cả tôi, nó học thua tôi hai lớp, tôi không biết nó nhưng nó rất rành về tôi, bởi ngày xưa chị cả tôi và chị nó hai người có nói chuyện với nhau, bảo rằng lớn lên cho tôi với nó thành hôn để hai gia đình kết làm sui gia, nó nghe được nên lại đi khoe với bạn nó, rồi nguyên khối lớp 10 bàn rùm lên làm như tôi với nó hứa hôn rồi chắc? Gặp tôi lúc nào cũng õng ẹo chỉ trỏ làm tôi thấy ghét, tôi gọi nó là Vân Sún làm nó tức lắm, giận tôi mấy ngày rồi cũng làm lành, ra vẻ thân thiết với tôi lắm, nhưng nó đâu biết rằng tôi để ý đến Bích, học sau tôi một lớp, Bích nó học rất giỏi và thường xuyên đứng đầu lớp, nó rất đẹp, cái đẹp mộc mạc của dân quê miền Tây, mái tóc thề và nụ cười dịu dàng hiền hậu, chỉ tội là tướng đi của nó như bị hai hàng, không cân xứng với nó lắm, nó đi học mang áo dài trắng quần đen chứ không phải quần trắng như những bạn gái khác, do đó mà tôi rất mến nó, mến cái dịu dàng chất phác chứ không sôi nổi như những bạn kia, tôi chỉ trò chuyện qua loa mỗi khi gặp chứ chưa hề ngỏ lời với nó bao giờ, vì tôi biết rằng, đường đời mình còn dài, và mình phải ráng học thì mới có thể vào đại học được chứ ba cái chuyện tình ái lăng nhăng nó làm ta xao lãng dữ lắm.

Nhưng đã lỡ kể rồi thì kể luôn. Tôi tuy học hành rất chăm, hiền hậu như thầy tu nhưng hình như cũng hơi bị lãng mạn. Vì sinh hoạt hiệu đoàn, tôi phải đi giao lưu với các trường, trong đó có trường Nguyễn Đình Chiểu và Lê Ngọc Hân, là hai trường công lập lớn nhất thành phố. Một lần vào sinh hoạt ở trường Lê Ngọc Hân, là trường nữ trong tỉnh, rặt toàn con gái. Hôm đó tôi có đại diện trường lên hát bài gì đó không nhớ, nhưng tôi lại nhớ một cặp song ca nữ hát nhạc Lê Uyên Phương thật tuyệt vời, sau tôi mới biết người hát là Cẩm, có mái tóc ngắn, mang mắt kiếng rất dễ thương, còn người đàn guitar là Cẩm Thủy, có mái tóc thề dài và vừa đàn vừa hát rất sôi nổi. Hai bạn này học thua tôi hai lớp nhưng sinh hoạt chững chạc lắm, hôm đó tôi còn nhớ là Cẩm mặc áo thun sọc đen và Thủy thì mặc áo thun trắng, nói chung nhìn vào là thấy thích liền, bởi học sinh lớp Mười thôi mà đã trình diễn rất chuyên nghiệp và bạo dạn như thế thì ít nơi có lắm. Tôi đến gặp hai nàng và khen lấy khen để làm hai nàng ấy vô cùng cảm động, và thế là lân la làm quen với cô Cẩm Thủy đánh đàn, Thủy thấy tôi tự dưng tán nàng tỉnh queo nên ngạc nhiên lắm, chúng tôi không thân nhưng tôi cảm thấy mình và cô ấy rất hợp về âm nhạc, tuy nhiên những cuộc tình vu vơ như vậy trôi qua mau chóng lắm, và mãi đến sau 75, lúc tình hình đất nước bi đát, Cẩm Thủy và chị tôi có làm ở xưởng may gia công áo gối gì đó, Thủy có đến nhà tôi chơi, lúc ấy tôi đã có bạn gái là vợ tôi bây giờ rồi, tôi giới thiệu và vợ tôi cũng biết Cẩm Thủy. Hôm ấy Cẩm Thủy và tôi cùng đàn hát tỉnh bơ như ngày nào mặc dù có người tôi yêu ở đó, mãi về sau này, khi tôi đã lập gia đình và đã có 2 con, tôi nghe tin phong phanh là Thủy đã qua đời vì bệnh, nhưng mãi đến thời gian gần đây, khi tôi gặp và kết bạn với Cẩm trên facebook, tôi mới biết Thủy vẫn còn sống và cuộc đời nàng cũng khá là cam go, nhưng giờ đây ai cũng đã lớn tuổi, có còn chăng là những kỷ niệm đẹp khi ta còn trẻ mà thôi.

Tuy lãng mạn như thế nhưng tôi học kinh lắm, nhóm bạn chúng tôi trên lớp đứa nào cũng vậy, vì chẳng đưa nào muốn phải bị đến quân trường, cho nên mỗi khi có bài Toán nào hay là chúng tôi châu đầu lại tìm cách giải. Sau lục cá nguyệt đầu, một anh bạn người Hoa của tôi là Tăng Chí Nguyên mới hỏi tôi là Lân ơi, mày về hỏi mẹ xem có thể cho tao ở nhờ từ đây đến ngày thi không? Tôi ngạc nhiên lắm, vì nhà Nguyên nó giàu vô cùng, ông bố nó có 4 cái công ty phân bón khắp miền Nam, nhà nó là nhà lầu mấy tầng ở Tân Hiệp, và ngay tại Mỹ Tho, gần trường Việt Tú cũng có nhà chú ruột của nó nhà lầu mấy tầng ở đó, sao lại xin ở nhà nghèo như tôi? Nó bảo rằng gia đình tao muốn cho tao chịu cực để học cho tốt, vì biết tính tao ham chơi nên mới thế. Tôi về hỏi mẹ thì mẹ tôi đồng ý ngay, nó mừng lắm, chiều tối hôm đó nó dọn vali sách vở đến nhà tôi mang theo chiếc xe đạp mini mới mua, tối thì hai thằng trải chiếu ngủ ở phòng khách. Nó biết gia đình tôi khó khăn nên không dám làm phiền bất kể thứ gì, ban trưa nó ăn cơm tiệm, tối cũng vậy, có lúc nó một mực dẫn tôi đi ăn với nó, tôi ngại lắm không chịu đi vì mình đâu có tiền mà bao lại nó, ít ra nó bao mình năm bảy lần thì mình cũng phải bao lại một lần chứ, nhưng nó hiểu điều đó và nói thẳng với tôi: Mày đừng ngại, bây giờ tao có điều kiện thì tao giúp mày, mai mốt biết đâu tao sa sút nghèo khổ thì mày giúp tao lại lo gì, còn không thì mày giúp người khác. Nó còn đóng tiền luyện thi cho tôi mấy tháng để hai đứa cùng đi học luyện thi mỗi tối nữa. Trong nhà, nó luôn uống nước suối Vĩnh Hảo, mua hết két này đến két khác. Có lần nó bị bệnh nằm quẹp trên ghế salon nhà tôi, nó nhờ em gái tôi nấu cho nó miếng cháo trắng mà nó cứ cám ơn và nhắc hoài.

Trong lớp thì nó xếp hạng sau tôi, nhưng tôi biết nó giỏi hơn tôi nhiều, chẳng qua là nó lớn hơn tôi hai tuổi, nhưng vì ham chơi thi rớt nên gia đình nó làm giấy khai sanh cho nhỏ tuổi lại và đi học lại, do vậy cũng kể như nó học đúp hai năm 11 và 12 nên nó rành dạng bài tập nào bài tập nấy lắm. Thắm thoát rồi cũng đến ngày thi, tuy nhà tôi nghèo nhưng bạn bè ai cũng thích và quý mến lắm, gần đến ngày thi, có bạn tôi hồi lớp 11 là Ngụy Định Ơn học ban A đến xin ở nhờ, Ơn cũng là người Hoa, học không khá lắm, và nó chỉ mong được thi đậu Tú Tài là mừng rồi, bất kể thứ hạng gì, lại còn có thêm Minh Dê và Thạch Hiền tuy theo ban A nhưng cũng xin đến ở chung nữa, Thạch Hiền người Khmer, da đen như củi cháy và cao 1 mét tám, nhà nó ở mặt tiền đường Lê Đại Hành gần đó nhưng nó vẫn thích xin vào ở nhà tôi để ôn bài chung cho vui. Minh Dê là lớp trưởng của tôi năm lớp 11 học cũng giỏi lắm nên yên tâm thế nào cũng thi đậu, còn Thạch Hiền thì học hơi bết bát nên cũng như Ơn, chỉ mong thi đậu là được. Tối nào chúng tôi cũng rì rầm học bài xong rồi ra trước sân tán dóc vui lắm, sau đó vô nằm xếp lớp trong phòng khách cả năm đứa cho đến ngày thi.

Ngày 26 tháng 6 năm 1974 ấy là ngày thi, nhưng trước đó 1 ngày thì thí sinh phải đến để xem coi mình thi phòng nào, ai đến thì tự tìm lấy theo số báo danh, tôi vẫn còn nhớ số báo danh của mình là 63-2120, địa điểm thi tại trường Lê Ngọc Hân Mỹ Tho, buổi sáng tôi đến dò danh sách và xem phòng, sau khi biết rồi thì về nhà, chuẩn bị chiến đấu cho ngày mai, chiều hôm đó cả bọn 5 đứa chúng tôi tụ họp đầy đủ. Nguyên nó bảo lâu nay học trường kỳ rồi, nay còn chỉ một bữa thì học làm gì nữa, và thế là tối hôm ấy, chúng tôi ngồi tán dóc ăn đậu phộng Nguyên mua về và uống nước suối Vĩnh Hảo, sau đó đi ngủ sớm, trong lòng cũng hơi hồi hộp vì đây là lần thi Tú Tài IBM theo kiểu trắc nghiệm hoàn toàn với 5 đáp án cho tất cả các môn, kể cả môn Triết và Công dân Giáo dục. Đợt thi này chỉ thi 2 ngày thôi, mỗi ngày thi cả hai buổi sáng chiều.

Qua hôm sau là ngày thi chính thức, chúng tôi đứa nào đứa nấy ăn sáng rồi đến sớm, tôi cũng như các bạn khác, đã được rèn luyện kỹ lưỡng rồi nên không có gì ngán ngại. Thời ấy phòng thi rất là nghiêm ngặt, bên ngoài có lực lượng quân cảnh và cảnh sát gác bên ngoài tường chứ không được phép vào trong sân trường, đề phòng biến động. Sở Học Chánh đã in sẵn ba bộ đề thi khác nhau A, B, C. Đúng giờ G thì toàn quốc sẽ biết thi theo bộ đề nào rồi xe chở đến chứ không hề có ai biết trước được. Thời VNCH chúng tôi họ làm rất nghiêm ngặt và rất khoa học, việc ra đề thi cũng rất quy mô và bảo mật, Bộ Giáo dục tập trung các Giáo sư giỏi trong toàn miền Nam về cách ly tại Nha Khảo Thí ở Sài Gòn, nơi có hàng trăm chỗ cho các giáo sư ăn nghỉ. Mỹ Tho có 2 thầy của tôi là Nguyễn Hữu Thông dạy Toán và Nguyễn Văn Kiến dạy Vật lý được Bộ điều lên để ra đề thi. Các thầy sẽ được tập trung ra đề và chọn lọc các câu hay nhất để đưa vào 3 bộ đề chính thức. Sau khi có xong 3 bộ đề thi ấy, tất cả các thầy vẫn phải cách ly tại nhà khách của Nha Khảo Thí và không được liên lạc với bên ngoài bằng bất kỳ hình thức nào, kéo dài cho đến hết ngày chúng tôi thi xong thì các thầy mới được về nhà, làm như thế thì không thể nào lọt ra ngoài chút nào được. Ngay trong đội ngũ giám thị coi thi, tập trung toàn bộ Giáo viên Tiểu học và Trung học Đệ nhất cấp thôi, để thí sinh có hỏi thì những giám thị này cũng không trả lời được, nhưng quy định nêu rõ, nếu thì sinh hỏi bài bất kỳ giám thị hay thí sinh khác thì đều bị kỷ luật cắt thi ngay lập tức, do đó mà thí sinh không dại gì để đem công lao học hành 12 năm của mình đem quăng xuống biển, ai nấy đều ý thức điều đó, cho nên qua ngày thi thứ hai, phòng thi của tôi vắng hết mấy người lớn tuổi, có lẽ họ là quân nhân hay công chức gì đó, thấy làm không được bài đằng nào cũng rớt nên họ bỏ luôn, không thi tiếp nữa.

Mỗi chiều khi đi thi về, dù không được đem đề hay giấy nháp về, chúng tôi cũng đều nhớ câu hỏi và câu trả lời của mình là gì, cho dù có cả hàng trăm câu cũng vẫn nhớ, đến chiều tối thì báo đăng đáp án từng câu dài cả mấy trang giấy, chúng tôi lấy ra so sau hai ngày thi thì biết rằng chắc chắn mình sẽ đậu hay không liền, cả đám tụi tôi chỉ mong cho Ngụy Định Ơn và Thạch Hiền đậu thôi, vì hai bạn ấy học không khá lắm, còn tôi, Nguyên và Minh Dê thì chắc chắn là đậu rồi, chỉ là thứ hạng thôi. Thi cử thời ấy gắt gao lắm chứ không như bây giờ tỉ lệ trúng tuyển hầu như là những con số tròn trĩnh, năm nào tỉ lệ thí sinh trúng tuyển cũng không vượt qua ⅔, nghĩa là trong 3 người sẽ có một người thi rớt. Tôi thì mong ngóng mình đậu cao một chút để được Học bổng du học nước ngoài, vì đọc báo thấy những người thuộc diện Quốc gia Nghĩa tử như tôi nếu đậu hạng Ưu, nghĩa là tất cả các môn đều 16 điểm trở lên, thang điểm 20, thì sẽ đương nhiên được đi du học, trước đó tôi có hỏi kỹ về tiêu chuẩn này rồi cho nên mong ngóng lắm.

Đến ngày có kết quả, chúng tôi theo dõi trên radio, đài phát thanh sẽ đọc tên, số báo danh và thứ hạng của những người đậu Tú Tài theo từng tỉnh một, đến tỉnh Định Tường thì tôi hồi hộp lắm, cả nhà tôi cũng mong nên lắng nghe, đến tên tôi thì nghe đậu thứ hạng Bình là cũng thuộc loại khá rồi, nhưng tôi hơi buồn vì không được hạng Ưu như mình mong ước, tôi mong cho báo ra sớm có đăng số điểm của từng người. Tôi lấy số điểm của mình chia ra theo hệ số thì mình thuộc loại Bình, nhưng cận với Ưu, tôi chỉ thiếu 0,05 điểm, nghĩa là so với bây giờ thang điểm 10 tôi chỉ thiếu 0,025 điểm thôi là đậu Ưu hạng, thời ấy không có làm tròn điểm, nghĩa là bình quân mỗi môn tôi đạt 15,95 điểm thôi, trong lúc chỉ cần đúng 16 điểm là đậu Ưu rồi, tôi thấy Toán mình được 18/20 điểm và Lý Hóa đạt 16/20  điểm, tôi thiếu chút xíu bởi vì môn Công dân và Vạn vật chỉ được 12. Thật đáng tiếc, tuy vuột mất cơ hội đi du học nhưng cũng tự an ủi mình là những người khác rớt nữa thì sao? Năm ấy tỉ lệ trúng tuyển cả nước là gần 68% thôi nên với số điểm này, tôi có thể ghi danh vào học đại học dễ dàng. Cả Thạch Hiền và Ngụy Định Ơn đều đậu, chỉ hạng Thứ thôi nhưng cả hai mừng lắm rồi, vì tụi nó mong chỉ có vậy thôi, còn Minh Dê theo ban A đậu Bình Thứ, Tăng Chí Nguyên theo ban B cũng đậu Bình Thứ, Nguyên nó coi vậy là đạt yêu cầu rồi vì dù đậu thứ hạng nào thì nhà nó cũng lo cho nó đi du học theo diện Tự túc mà. Mẹ và chị tôi cũng mừng vì kết quả này lắm nhưng đâu biết nỗi buồn trong tôi là vuột mất cơ hội lấy học bổng du học nước ngoài. Sau đó ít ngày, Ngụy Định Ơn đem xe hơi lên chở tôi về nhà nó ở Cai Lậy để ăn mừng, có cả Tăng Chí Nguyên đi nữa. Thôi thì một bữa ăn uống ê hề của những người nhà giàu mà tôi lần đầu tiên nhìn thấy. Cả gia đình Ngụy Định Ơn mừng lắm.

Sau khi tôi thi đậu, Cha Tuân linh hướng của tôi thưởng cho tôi một chuyến đi Vũng Tàu nhân cha có việc gì đó ở ngoài Bãi Dâu nên chở tôi và chị kế tôi theo trên chiếc xe Deux Cheveaux của cha, hồi đó cha thương chị em tôi lắm, cha còn chở chị em tôi về thăm nhà cha ở Thủ Đức, gặp bà cố cùng mọi người trong gia đình ai ai cũng vui vẻ, nên dịp ấy, sau khi ở Vũng Tàu về, chị em tôi đi thăm dì tôi ở Bà Rịa nhân đám cưới chị Thông con út của dì luôn, còn cha đi xe về trước. Nhà dì tôi ở Vùng cao su đất đỏ Bình Ba, là đồn điền cao su của Pháp, địa danh mà sau này tôi nặng nợ với nó nhiều lắm, Bình Ba bấy giờ thuộc dạng xôi đậu, ban ngày lính quốc gia, ban đêm Việt cộng, chị tôi lấy một anh lính địa phương quân mà gia đình dì tôi lại là gia đình cách mạng, có hai người con một trai một gái theo phe giải phóng và một anh đầu làm giao liên Việt cộng bị mất tích. Tuy hai bên như vậy nhưng cũng không sao. Chị em tôi đến dự đám cưới thì chị tôi mừng lắm. Trong đám cưới, tôi ngồi nói chuyện với Thiếu úy Ngọc là sếp của anh rể tôi, thiếu úy Ngọc thích tôi lắm nên bảo tôi ở đây chơi nhưng đến tối anh ấy cho xe đến chở tôi lên Chi khu Đức Thạnh ngủ cho chắc ăn, chứ dưới này ban đêm là Việt cộng về nguy hiểm lắm, tôi cũng ậm ừ cho qua chuyện thì chị họ tôi là chị đầu con dì tôi nghe được, kéo tôi vào trong rồi bảo tôi đừng nhận lời, chị tôi đảm bảo không sao đâu, nếu có Việt cộng về thì họ cũng không làm gì đâu, chị đảm bảo như thế. Tôi từ chối thiếu úy Ngọc bảo rằng lâu lâu mới về thăm dì tôi có một đêm nên dì tôi không cho tôi đi và thế là xong, đêm ấy tôi ngủ lại nhà dì tôi, thực sự thì trong lòng cũng nơm nớp lo vì trước giờ nghe nói Việt cộng là nghe nói đến những vụ tàn sát chứ thấy gì yên lành đâu? Đêm hôm ấy Việt cộng về thiệt, tôi nghe thấy tiếng súng lên đạn răm rắp nhưng không xảy ra giao tranh, hình như họ cũng quen rồi thì phải. Nghe tiếng họ đi ngoài đường và hát bài Giải phóng miền Nam làm mình cũng lạnh gáy, khoảng nửa đêm về sáng thì có vài tiếng súng nổ rồi họ lại rút đi mất. Sáng hôm sau trước khi chúng tôi về, chị họ tôi bảo tôi giá mà em ở lại đây theo cách mạng thì hay quá, bên giải phóng họ đang cần người có trình độ, tôi cười nói thôi chị ơi, làm sao được? Em còn phải lo học đại học, còn phải lo cho tương lai của em nữa chứ. Chị tôi cười bảo chị biết mà, lúc đó chị ấy cũng đã theo phe giải phóng rồi và làm y tá ở trong rừng, nhưng hoạt động bí mật nên ít người biết. Sau đó chị em tôi ra về quay lại Mỹ Tho.

Bấy giờ ở Nhà thờ Nữ Vương Hòa Bình, sau gần một năm tôi tham gia ca đoàn, bác Trường Ca trưởng vì là Trưởng ban Quân nhạc Quân đoàn 4 nên phải dời về Cần Thơ, chia tay ca đoàn Nữ Vương chúng tôi sau nhiều năm gắn bó. Bác giới thiệu tôi với cha Antôn Nguyễn Thành Long để tôi thay thế bác nắm ca đoàn. Cha Long bèn tổ chức một cuộc họp và mọi người bầu tôi làm Ca trưởng, cũng bởi vì tôi mới 18 tuổi còn nhỏ quá nên cha Long sẽ nắm Đoàn trưởng, trong ca đoàn có nhiều người lớn tuổi hơn tôi nhiều, như chú Tuấn là quân nhân biệt phái, anh Sử anh của Ký cũng là quân nhân, anh Thành cũng là quân nhân, và ngay cả Phước là bạn tôi, em của anh Thành cũng lớn hơn tôi 2 tuổi, do làm giấy khai sinh nhỏ lại để đi học thôi, bên Nữ thì có chị Thìn, chị của Phạm Quang Trung bạn tôi, chị Yến, chị Ký cô Trang và những chị khác nữa cũng đều lớn hơn tôi hai ba tuổi, các em khác thì hầu hết bằng tuổi tôi hoặc nhỏ hơn tôi một hai tuổi, tại họ thấy lâu nay bác Trường chỉ giáo cho tôi nhiều và thỉnh thoảng cũng tập hát giúp bác nên họ tin và bầu cho tôi. Ca đoàn lúc đó 36 người, cũng hùng hậu lắm, chia làm 4 bè hát hợp xướng ngon lành, chúng tôi năm ấy lên thăm cha Chúc là cha quản nhiệm cũ ở Bình Đức, hát lễ xôm tụ lắm và được cha mời lại dự tiệc rất đông vui. Ca đoàn chúng tôi trực thuộc bên Quân đội nên mỗi lần lễ lớn như Noel chẳng hạn, chúng tôi chia ra làm 3 nhóm đi hát lễ 3 nơi. Noel năm 1973 và 74, các nơi chúng tôi đến hát lễ là Trại Cải huấn Định Tường, Tiểu đoàn 402 và Bộ tư lệnh Hải quân, sau đó quay về nhập lại hát lễ chung Đêm Noel. Ca đoàn còn tổ chức biểu diễn Văn nghệ và rảnh ra là chúng tôi tập Bộ lễ Latin De Angelis cho ai cũng biết hát, và đúng Noel năm 1975, chúng tôi đã hát bộ lễ này, ý Cha sở bảo hát long trọng thế cho bộ đội giải phóng nó biết. (TOP)

Vào Đại học

Sau khi thi đậu, nhà tôi thì không ăn mừng gì cả, tôi chỉ lên nhà Nguyễn Công Phước là Thiếu phó Hướng đạo của tôi ăn mừng chung với ca đoàn. Tôi chuẩn bị thi vào đại học còn Phước thì xin vào Đại chủng viện. Vốn ôm ấp mộng cao vời nên tôi nộp đơn thi vào Đại học Sư phạm khoa Toán Đệ nhị cấp mà không tự lượng sức mình, năm ấy ĐHSP chỉ lấy 40 sinh viên Đệ nhất cấp và 40 sinh viên Đệ nhị cấp mà thôi, tôi làm bài cũng tương đối thôi nên không đạt, tại cả nước còn rất nhiều bạn xuất sắc lắm nên tôi thi rớt là phải rồi. Tôi cũng nộp đơn xin thi vào Đại học Kiến trúc nữa, nhưng khi đến gần ngày thi, nhà tôi khó khăn quá, thấy mẹ tôi lo chạy vạy tiền cho tôi đi thi mà đắng lòng nên tôi nói Thôi mẹ ơi, để con ghi danh vào học Đại Học Khoa Học ban MPC cũng được, chứ học Kiến trúc cũng tốn tiền mua vật dụng lắm, vì thế nên tuy nộp đơn rồi Kiến Trúc rồi nhưng tôi bỏ, không đi thi vì hoàn cảnh bấy giờ gia đình tôi khó khăn quá.

Tôi ghi danh vào Khoa Toán Lý Hóa MPC Đại học Khoa Học Sài Gòn với mộng ước học xong Cử nhân Giáo khoa Toán Lý Hóa thì chỉ cần tu nghiệp thêm 1 năm nữa là có thể đi dạy như Đại học Sư phạm vậy, vì thời ấy may ra đi dạy thì có thể còn có lương lo cho gia đình và khỏi phải đi lính nên tôi cố gắng lắm. Lên Sài Gòn, tôi ở trọ tại một căn nhà nhỏ phía sau đường Hồng Thập Tự chung với khoảng 20 bạn khác, nhưng hỏi ra thì tiền thuê nhà và tiền ăn mắc quá nên chỉ vài ngày sau, tôi gặp Trung trong ca đoàn và chúng tôi thuê một căn gác nhỏ ở cuối đường Nguyễn Thông cùng một người bạn khác là Nguyễn Văn Châu dân Nhà thờ Chánh tòa Mỹ Tho. Ba đứa ở chung chia tiền thuê nhà ra thì cũng rẻ, nấu ăn thì góp gạo nấu ăn chung. Ba đứa mà chỉ có một chiếc xe đạp nên tôi đi học phải đi bộ thường xuyên, những lúc hai đứa nó ở nhà buổi tối thì tôi mượn xe đạp để học giờ tối, nói chung như vậy cũng là tạm ổn. Thường thì Thứ Bảy Chúa nhật tôi được nghỉ nên về nhà thường xuyên lắm, tại thời gian này chúng tôi làm tạp chí Áo Trắng cho trường Gioan 23 nên cha Tuân và thầy Vọ tài trợ tiền xe cho tôi về thường xuyên, và cũng nhờ đó mà có thời gian tập hát cho ca đoàn Nữ Vương. Trong thời gian này, nếu tôi vắng thì có chú Tuấn hoặc Đức là Ca phó tập giùm.

Quãng thời gian đi học gian khổ lắm, mỗi ngày tôi phải đi bộ từ Cống Bà Xếp về Quận 10 chứ xe đạp cũng đâu có mà đi, trời nắng thì cũng đỡ chứ trời mưa thì vừa đói vừa ướt, thường thì buổi trưa tôi vào Quân tiếp vụ ở đầu đường Trần Quốc Toản ăn cơm vì ở đó họ làm từ thiện giúp lính nên rẻ như cho, tôi vẫn nhớ họ ghi tấm bảng cơm canh và nước trà không giới hạn, nhưng canh ở đó thì chỉ nước và ít rau muống thôi nên ăn thỏa sức thì đâu có hề gì, sinh viên như tôi được vậy là may lắm rồi, chiều về ba đứa mới nấu ăn chung nhưng ở nhà thì cũng không hơn ngoài Quân tiếp vụ là bao, tiếc là Quân tiếp vụ họ bán buổi trưa thôi chứ nếu bán buổi chiều nữa thì chắc chúng tôi kéo ra ăn cho nó no hơn, chứ thường thì toàn ăn canh cà chua nấu với đậu hũ là chính, ba thằng thằng nào cũng ngấy lên tận cổ nhưng phải hà tiện để chi dùng cho những thứ khác. Một hôm nọ có chị Thìn là chị của Trung cùng chị Yến là hai thành viên trong ca đoàn lên thăm, chủ yếu là mua vải may đồng phục cho ca đoàn, trưa hôm ấy hai chị chẳng thấy thức ăn đâu cả nên ra chợ ngoài đường Nguyễn Thông mua cá về chiên và thêm món canh chua gì đó làm chúng tôi được một bữa thịnh soạn, sau đó hai chị ra chợ Bến Thành mua vải xong rồi về, chúng tôi lại tiếp tục canh cà chua như cũ.

Ban đầu học đại học, chúng tôi cũng ngỡ ngàng vì không ai quản lý cả, ai thích thì đi, không thích thì ở nhà, miễn sao giờ thực tập phải làm bài và có bài nộp là được. Lần đầu tiên tôi thực tập TP môn Lý quả thật mình không biết làm thế nào cho nên chỉ có 3 điểm rưỡi, thang điểm đại học là 10 chứ không phải 20 như trung học, về sau tôi khá dần và điểm cũng đạt 5 hoặc 6, thế là may lắm rồi. Hồi đó học cũng căng lắm, các giáo sư không phải như ở trung học đâu, các thầy bảo khi các bạn đến đây có nghĩa là những kiến thức phổ thông về Toán học như giải tích, hình học, tân toán học thầy không cần nhắc lại nữa mà sinh viên phải tự hiểu, do đó mà bước đầu hơi khó khăn, có khi viết vào tập mà chẳng hiểu gì cả, tối về xem lại thật kỹ rồi mới biết nội dung hôm nay học gì, và cần phải làm những bài tập ấy như thế nào, riết rồi cũng quen dần.

Trong hẻm chúng tôi ở, có một nhà nguyện nho nhỏ ở gần bên, mỗi tuần có Linh mục đến dâng lễ hai lần, tối Thứ Tư và tối Thứ Sáu, dân trong xóm hầu hết theo đạo Công giáo, chúng tôi cũng vậy nên cũng sắp xếp đến dâng lễ. Cái nhà nguyện nhỏ ấy chứa khoảng hai chục người thôi, mỗi lần lễ cũng có ba bốn cô con gái hát lễ, trong đó có hai cô trẻ nhất cũng là hai chị em ruột, hóa ra nhà hai cô này ở ngay trước mặt nhà chúng tôi thuê, và sau này, có một người anh họ của hai cô này cũng là dân Mỹ Tho lên trọ học, chúng tôi làm quen mau chóng, người anh họ ấy tên là Thành, cũng học năm nhất như chúng tôi, nhưng Thành nó làm biếng nên ít khi đi lễ nơi nhà nguyện này lắm, có ba chúng tôi là thường đi thôi, và cũng vì dân ca đoàn nên tôi với Trung ngứa miệng, nhào vô hát lễ chung với mấy cô ấy luôn. Hai đứa em của Thành thấy vậy thích lắm, tên thật hai cô ấy là gì tôi không nhớ, chỉ biết cô chị tên là Tí Ti như Thành gọi, còn cô em tên là Tí Tẹo. Tí Ti học lớp 11 còn Tí Tẹo học lớp 10, nhìn thì thấy Tí Tẹo đẹp sắc nét hơn Tí Ti, nhưng tôi thích cái vẻ im ắng ít nói của Tí Ti hơn. Trung thì tính tình ai nó cũng bô lô ba loa nên nó chẳng ưng cô nào, nhưng tôi thì lại để ý đến Tí Ti và cũng hay nói chuyện với nó, nó cũng thích tôi, lâu lâu hỏi tôi về bài vở và chúng tôi hay ngồi trước hiên nhà nó chuyện trò mà chẳng lo ngại gì ba mẹ nó, bởi hình như mẹ nó cũng chấm tôi rồi hay sao không biết, mà bà chẳng lo ngại hay ngăn cản gì, có lẽ bà thấy trong 3 đứa, tôi là thằng hiền nhất cho nên bà yên tâm, mới để chúng tôi tự do như vậy. Trung nó bảo tôi sao Tí Tẹo đẹp hơn mà mày không ưa, lại ưa con chị nhìn nét mặt khó đăm đăm? Tôi bảo bạn bè nói chuyện cho vui thôi chứ bồ bịch gì? Trong mắt chúng tôi thì bình thường vậy, nhưng có một ánh mắt rất khác ở trong nhà bà chủ chúng tôi thuê vẫn thường hay để ý chúng tôi lắm, đó là Mỹ Lệ, con gái út của Dì Năm, bà chủ nhà.

Nhà Dì Năm bình thường chỉ thấy 3 người, gồm dì và hai người con gái, một cô lớn tuổi hơn chúng tôi, đi làm thư ký cho trường Trí Đức và cô Út là Mỹ Lệ. Tưởng là chỉ có vậy nhưng không phải, dì còn có một người con trai đang trốn quân dịch và một người con gái lớn đã lập gia đình rồi, lâu lâu mới ghé thăm, còn chồng của dì sống hay chết chúng tôi cũng không biết, cho nên trong nhà hàng ngày vắng lắm, chỉ thấy Mỹ Lệ đi học về thì ra phụ bán cho dì và mang những rau ráng còn lại về nhà thôi, còn cô chị thì sáng sớm ra đã đi làm, tối mới về nhà nên chúng tôi ít khi gặp lắm, do vậy nên căn gác phía cuối nhà, trên cái bếp của dì thì dì cho chúng tôi thuê là vậy, có lối đi bên hông nhà để lên cầu thang. Mỹ Lệ năm đó mới 16 tuổi, học trường Marie Curie, mặt mày xinh đẹp dễ thương lắm, thời ấy mà gia đình nó cho nó học trường này là không phải chuyện đùa, chắc là phải hy sinh lắm vì rất tốn kém, thường thì con nhà giàu quý tộc mới vào học nổi trường này. Tôi đâu biết rằng trong ba đứa chúng tôi là nó thương tôi nhất, bởi nó thấy tôi hiền từ vui vẻ thì phải? Chuyện là thế này: Ba đứa chúng tôi thường bê bối về cái khoản dọn dẹp nhà cửa, lúc nào cũng bày biện lung tung, áo quần thì vất mỗi nơi mỗi cái, thế mà hầu như ngày nào đi học về thì cũng thấy nhà cửa gọn gàng, sàn nhà được lau chùi cẩn thận, Châu và Trung cứ tưởng là tôi làm vì nó biết tính tôi siêng năng dọn dẹp nên nó cũng chẳng hỏi làm gì, nhưng tôi đâu có làm, do vậy mà tôi biết có một đôi bàn tay khác làm điều này, và tôi nghĩ ngay là nó, bởi nó lâu nay vốn có cảm tình với chúng tôi, ở nhà có món gì ngon nó cũng hay sớt lên cho chúng tôi một ít. Châu với Trung thì ngang tàng rành đời nên nó ít nói chuyện, nó chỉ hay nói chuyện với tôi thôi và thỉnh thoảng nó hay kêu tôi đàn hát cho nó nghe, qua ánh mắt thì tôi biết nó yêu thật rồi, bởi có lần tôi đi học về thấy áo quần tôi được giặt và xếp ngay ngắn nơi góc đồ của tôi, tôi hỏi thì nó chối rồi mỉm cười đi chỗ khác, nhiều lần như vậy quá làm tôi rất ngại nhưng nó vẫn cứ thế, dọn dẹp lau chùi phòng của chúng tôi thường xuyên, thậm chí có lúc thấy tôi đem nồi gạo xuống bếp để vo thì nó giằng lấy làm giùm nữa. Một hôm nọ, tôi đi học về sớm, mới đến cầu thang thì thấy nó khóc, nó chạy đến ôm lấy vai tôi rồi gục đầu vào đó mà khóc, miệng cứ nói Lỗi tại em lỗi tại em. Tôi hết hồn hỏi chuyện gì thì nó bảo Mẹ em không cho các anh thuê nhà ở đây nữa, tôi hỏi vì sao thì nó kể hôm nay dì Năm vô tình thấy nó đang dọn dẹp lau chùi phòng tôi nên hoảng hồn, đánh cho nó một trận và bảo không cho chúng tôi thuê nhà nữa, sợ rằng mai mốt lậm đi thì nguy, chứ con gái hơ hớ như vậy lỡ có chuyện gì… Tôi đắng họng, không biết an ủi nó thế nào bây giờ vì nó cứ ôm chặt lấy tay tôi mà khóc, chỉ thiếu điều ôm tôi nữa mà thôi, tôi đẩy nó ra và bảo coi chừng mẹ em về thấy thì bị đòn nữa bây giờ, lúc ấy nó mới chịu buông ra.

Tối hôm đó dì Năm gọi chúng tôi xuống thật và bảo là cho chúng tôi hai tuần để kiếm nhà khác chứ dì không cho thuê nữa, dì cũng chẳng nói lý do gì. Châu và Trung ngạc nhiên lắm vì nó không biết rõ nguyên nhân vì sao, còn tôi thì biết rõ nhưng nói ra làm gì mất công tụi nó chửi tôi, lỗi tại Mỹ Lệ nó thân thiết quá chứ đâu phải lỗi tại tôi. Gần đến ngày dời đi rồi mà chúng tôi vẫn chưa tìm ra được nhà, lại đang mùa thi học kỳ nữa nên chúng tôi lo lắm, đột nhiên hôm đó, tôi vừa vào chân thang gác thì cũng chính nó lao ra ôm chầm lấy tôi vừa khóc vừa cười, bảo rằng mấy ngày nay nó thuyết phục mẹ và dì Năm cũng hỏi mấy người chung quanh, biết rằng ba đứa chúng tôi hiền lành đạo đức lắm nên dì đổi ý, không kêu chúng tôi dọn đi nữa. Tôi gỡ tay nó ra bảo: Nữa? Coi chừng bị đòn lần này thì xong đó nghen! Nó buông ra cười tươi và nói mẹ em đang bán ngoài chợ mà! Nhưng tôi cấm, bảo rằng không được thế, em còn nhỏ lo học hành đi, mặc dù tuổi thanh niên như tôi được một đứa con gái xinh đẹp như thế đụng chạm thì thích lắm chứ, tuy nhiên tôi phải cứng rắn như vậy để ở yên mà học hành, nó cũng biết thế nên cẩn thận hơn, không bao giờ lên phòng tôi nữa, có lên cần chỉ bài hay gì đó thì lên khi có mẹ nó ở nhà. Từ đó dì Năm nhìn chúng tôi bằng ánh mắt thân thiện hơn và chúng tôi cũng yên tâm hơn lo việc thi cử sắp tới.

Cái hẻm nơi chúng tôi ở gọi là Cống Bà Xếp, sát nách Ga xe lửa Hòa Hưng, hầu như đủ mọi thành phần giang hồ và trí thức cư ngụ trong đó. Lúc chúng tôi mới dọn về ở, thanh niên trong xóm số ít còn đi học chứ hầu hết đều là dân trốn quân dịch, ăn chơi đĩ điếm thì chúng tôi không thấy nhưng xì ke thì đủ thứ, bọn họ thấy cùng độ tuổi mà chúng tôi là sinh viên thì một vài đứa cũng ngứa mắt, tính gây chuyện đập chúng tôi một trận để dằn mặt, vì mỗi lần đi học về thấy tụi nó hút thuốc nhìn găm găm vào nình, chỉ cần chúng tôi nhìn lại là có chuyện ngay, cho rằng chúng tôi kênh tụi nó, nhưng may mắn thay, tụi nó tuy bặm trợn côn đồ nhưng cũng là dân có đạo, thấy chúng tôi hát lễ ở nhà nguyện và tính tình hiền lành vui vẻ nên tụi nó hiểu ra, không còn hù dọa như trước nữa, chúng tôi cũng nói chuyện với tụi nó và có đêm tôi cũng cầm đàn ra ngồi hát hò với tụi nó nữa, đến khi nghe tiếng còi của cảnh sát ở ngoài đường vọng vào là tụi nó tản đi ngay, bởi tụi nó hầu hết là trốn quân dịch mà. Trong đám có một anh chàng tóc dài có râu tên gì tôi quên rồi, hình như là đại ca của tụi nó, lớn hơn chúng tôi gần chục tuổi là ít, thấy chúng tôi có ăn học, lại vui vẻ mà không kênh kiệu nên anh chàng nói chuyện với chúng tôi đàng hoàng lắm. Có một lần vào buổi trưa nọ, thấy nhà dì Năm không có ai ở nhà, bọn họ kéo đến phòng tụi tôi chơi, phòng thì chật mà thêm 4 đứa nữa thì kẹt cứng, ngồi đàn hát một hồi, tôi thấy bọn họ lấy ra cây đèn cầy và cái muỗng inox, tôi không biết chuyện gì thì thấy họ lấy gói bạch phiến nhỏ xíu ra bỏ vào muỗng rồi đốt đèn cầy nung lên, cả 4 đứa tụi nó hít lấy hít để, chúng tôi hoảng hồn nhưng không dám nói ra, nhưng nếu không nói mà dì Năm biết được thì chúng tôi cũng tiêu. Trung thì làm như ra vẻ dân chơi lắm nên cứ cười cười cùng tụi nó nhưng không hít, còn Châu thì mặt tái xanh miệng lâm râm như đang đọc kinh vậy, tôi cũng sợ xanh mặt nhưng cố bặm gan cho tụi nó hít xong rồi liền buông đàn, nhỏ nhẹ nói với anh chàng đại ca: Anh nè, nói thật, nếu anh thương tụi em thì đừng làm vậy nữa, có chơi ke thì chơi đâu chứ anh chơi ở đây thì dì Năm biết được đuổi tụi em đi thì tiêu, gần ngày thi rồi. Anh chàng đại ca nghe vậy liền cười bảo: Ừ thôi, thằng Lân nói đúng, nhưng lỡ lần này thôi nên bọn bây yên tâm đi, và cũng kể từ đó, không bao giờ họ ghé nhà chúng tôi hút xì ke nữa, họ cũng rất hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh tụi tôi.

Lúc mới lên, thường thì chúng tôi đi lễ sáng Chúa nhật bên nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế ở Kỳ Đồng, sau thấy ca đoàn hát hay quá nên chúng tôi bàn nhau xin gia nhập ca đoàn đó, thì ra đó là ca đoàn chính của nhà thờ, do Nhạc sĩ Đinh Thiện Bản làm Ca trưởng. Thầy Bản lúc đó khoảng 40 tuổi, là Đại Úy của Cục Tuyên huấn Bộ Tổng Tham mưu nên thầy có nhiều thời gian chăm sóc và phát triển ca đoàn. Tối hôm đó, ba chúng tôi đến gặp thầy và xin gia nhập ca đoàn. Thấy chúng tôi là những sinh viên công giáo nhiệt tình nên thầy chấp thuận nhưng phải qua xét tuyển, mỗi đứa chúng tôi đều phải trả lời một số câu hỏi của thầy đưa ra về nhạc lý, đồng thời phải xướng âm một đoạn nhạc khoảng 10 measures để xem có đúng không, tôi thì rành nên không phải ngại, chỉ lo cho Trung và Châu, nhạc lý thì cả hai cũng biết nhưng xướng âm thì Châu chịu thua, còn Trung thì xướng đúng bài nó biết sơ sơ nên nó và tôi đậu, còn Châu thì rớt, nhưng Châu cũng chẳng buồn gì, nó bảo vậy thì hai đứa mày từ nay đi tập hát còn tao coi nhà.

Ca đoàn này mang tên là Ca đoàn Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, nhân lực rất dồi dào, tính ra cả trăm ca viên lận, nhưng thường đi hát lễ khoảng trên 60 người, mỗi bè đều có bè trưởng nên thầy Bản đỡ phải tập, thầy chỉ tập ráp và tập các biểu hiện trạng thái nuance nhã chữ thế nào cho đúng cho hay thôi, và cũng nhờ tham gia ca đoàn này mà tôi học tập thêm nhiều điều tốt đẹp về chuyên môn cũng như về điều khiển thánh ca. Hóa ra ca đoàn này thời ấy chuyên thu âm các bài thánh ca vào đời của Linh mục Nhạc sĩ Thành Tâm ra band cassette phát hành bên ngoài, lâu lâu có bài mới Cha Thành Tâm cũng ghé thăm động viên anh chị em đã giới thiệu các bài hát mới của cha, và thỉnh thoảng cha cũng đệm đàn cho ca đoàn nữa. Lúc ấy ca đoàn chúng tôi cũng đang chuẩn bị ra một album mới cho Đại hội Giới Trẻ Mariapoli, đang chuẩn bị thu âm đâu đó đàng hoàng thì chiến sự nổ ra nhanh quá, cho nên kế hoạch bị hủy bỏ vì tình hình chiến tranh bấy giờ rất đáng ngại. Sau biến cố 75 thì chúng tôi mỗi người một ngả, đâu còn tham gia được nữa, mãi đến năm 2008, lúc tôi vẽ minh họa cho Báo Thánh nhạc Ngày nay của Nhạc sĩ Ngọc Kôn, tôi có gặp lại thầy và nhắc lại kỷ niệm xưa, thầy vẫn còn nhớ và gần 10 năm sau thì thầy qua đời, không vợ không con nên quàn thi hài tại Dòng Chúa Cứu Thế, tôi có đến phúng viếng, thương thay một nghệ sĩ đa tài và có tâm, thầy đã đào tạo khoảng 50 khóa huấn luyện ca trưởng cho Thánh nhạc và Giáo hội Công giáo Việt Nam. (TOP)

1975

Những ngày đầu năm 1975, chiến sự bùng lên khắp miền Nam và ảnh hưởng không ít đến việc học tập của chúng tôi. Là sinh viên nên hơn ai hết, chúng tôi biết rõ tình hình chiến sự và biết mình cần phải làm gì, tuy nhiên chúng tôi vẫn chưa lường trước được sau khi mất viện trợ của Hoa Kỳ thì hậu quả của nó lại gây nên biết bao hệ lụy như thế, xã hội khui ra bao chuyện tham nhũng thối nát, ngoài chiến trường thì không được bổ sung hỏa lực cho đủ vì thiếu viện trợ, bên nào cũng nói bên kia vi phạm Hiệp định Paris. Ngay trong sinh viên cũng chia làm hai khối: Một khối chống đối chính quyền ra mặt do Cộng sản giựt dây hỗ trợ, khối kia được chính quyền lập nên làm đối trọng với phía bên kia, thí dụ như khi nghe tin Bình Long thất thủ, nhóm sinh viên này thì bảo do chính quyền thối nát độc tài cho nên quân đội không còn sức chiến đấu nữa, nhóm sinh viên kia lại cho rằng hãy nhìn xem Bình Long An Lộc khi cộng sản chiếm được họ tru diệt tàn ác như thế nào. Nói chung cả hai phe đều lắm mồm và thường các giáo sư của tôi đứng trung dung, mỗi lần phe nào vào nói chuyện tuyên truyền trước giờ học đều bị giáo sư đuổi ra không thương tiếc.

Giới trí thức ngày ấy, theo tôi, đang chờ đợi một sự đổi thay bởi một lực lượng chính trị bấy giờ gọi là Thành Phần Thứ Ba, gồm những nhân sĩ trí thức có khuynh hướng hòa hợp hòa giải, họ cũng không thích cộng sản, và họ cũng lên án sự bất công thối nát tham nhũng của chính quyền hiện tại. Tuy tôi cũng nghiêng về họ nhưng tôi thấy đường lối có vẻ mơ hồ, thiếu thực tế trong bối cảnh hiện tại, trong khi Liên xô và Trung cộng hỗ trợ tối đa cho Bắc Việt, phá bỏ Hiệp định Paris, xua quân ào ạt để thôn tính miền Nam, thì miền Nam lại mất đi sự viện trợ từ phía Hoa Kỳ, làm sao đủ vũ khí đạn dược có thể đối phó được? Nhưng thôi, chuyện này để cho lịch sử phán xét chứ tôi không nói tới làm gì, chỉ biết trong những ngày u ám ấy, chúng tôi vẫn cố mà học, cho dù trong tâm trạng rối bời và hầu hết không ai biết ngày mai sẽ ra sao…

Vào một buổi sáng tháng Giêng 1975, chúng tôi vừa vào lớp chưa kịp học thì nghe những tiếng nổ lớn vọng về từ hướng quận 1, chúng tôi bèn chạy ra ngoài thì nghe tiếng phản lực cơ gầm rú cùng lúc với tiếng súng liên thanh bắn xối xả, còi báo động rú lên khắp nơi làm sáng đó chúng tôi nghỉ học luôn vì giáo sư chẳng thấy tới, thì ra đó là do phi công Nguyễn Thành Trung đưa máy bay A-37 ném bom Dinh Độc Lập rồi bỏ trốn, hóa ra ông ấy lâu nay là Việt cộng nằm vùng. Vụ ném bom chỉ gây tiếng vang thôi chứ không gây thiệt hại gì cho ai cả, đêm ấy Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình trấn an dân chúng và lên án bọn làm tay sai cho cộng sản với lời lẽ rất là đanh thép. Hôm ấy tôi định viết thư về xin tiền chị tôi để mua đôi săng-đan vì đôi cũ đã bị đứt rồi, bức thư mãi về sau mới đến tay chị tôi và lúc ấy thì chẳng còn tiền để nong sắm sửa gì nữa vì chiến sự rất ác liệt, có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.

Và rồi chuyện gì đến cũng sẽ đến, những ngày tháng Tư buồn bã và chộn rộn làm tâm trạng mỗi người chúng tôi cũng khó có thể tả được, từng tỉnh thành mất đi vào tay cộng sản, tháng trước tôi có về nhà thăm thì đã gặp chị tôi đưa cháu chạy nạn từ Pleiku về theo con đường đại lộ kinh hoàng từ Tây nguyên về đồng bằng, rồi lên tàu chạy vào Nam, anh rể tôi còn kẹt lại chưa vào được, anh ruột tôi thì đang kẹt lại quân trường sau khi đã 5 lần đào ngũ, thế rồi tôi mất tin tức gia đình, tiền bạc của ba đứa chúng tôi còn lại chỉ gom đủ mua được 2 cái vé xe đò về Mỹ Tho, ba đứa chúng tôi liền bốc thăm và tôi không may mắn, phải ở lại Sài gòn với ít gạo và nước mắm còn dư. Châu và Trung hứa về sẽ đưa tiền lên sau cho tôi cùng về, sau đó hai đứa quay về chỉ mình tôi ở lại với cái xe đạp của Châu, trường đã nghỉ học, hàng ngày tôi đạp xe rảo quanh Sài Gòn với nhiều tiếc nuối pha lẫn nỗi buồn, rùng mình khi nghĩ không biết ngày mai sẽ ra sao? Đêm về, tiếng súng rì rầm mỗi lúc một gần thành phố hơn. Chiến cuộc đã làm cục diện chính trị lâm vào cảnh bi đát, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sau khi mạnh miệng tuyên bố hùng hồn cho lắm rồi cũng từ chức, tố cáo Hoa kỳ bỏ rơi Nam Việt Nam, cụ Trần Văn Hương già cỗi lên nhiếp chính cũng chẳng thay đổi được gì, sau đó Tổng thống Thiệu lên đường bay qua Đài Loan, rồi Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố tử thủ được hai ngày cũng rút đi nốt, tình thế không thể nào đảo ngược được nữa, cho dù Trần Văn Hương từ nhiệm giao quyền cho tướng Dương Văn Minh lên làm tổng thống.

Chiều 28, tôi đạp xe đến đường Hồng Thập Tự, phía sau Tòa Đại Sứ Mỹ, thấy người ta nô nức chen chân vào cổng sau đông như kiến để vào bên trong sân có máy bay di tản ra Hàng không mẫu hạm, cứ vài phút lại có một chuyến, tôi thấy cũng có một số bạn trẻ như tôi leo lên hàng rào, tuy bị Thủy quân Lục chiến Mỹ xô xuống nhưng một số cũng vào được, tôi tự nhủ hay là mình cũng bắt chước họ, thử liều một phen xem sao? Tôi dựng chiếc xe đạp xuống rồi qua bên kia đường chen vào như những người khác, thỉnh thoảng quay lại liếc xem có ai lấy mất chiếc xe đạp hay không, được một lúc tôi thấy đông quá nên ngán ngại, nghĩ rằng nếu đi được thì không nói làm gì, còn nếu không được mà mất chiếc xe đạp thì ăn nói làm sao với Châu đây? Và thế là tôi quay lại, leo lên xe đạp ngán ngẫm quay về. Đi ngang qua Hồ Con Rùa, vô tình tôi thấy một chiếc xe hơi dừng lại cạnh một tòa nhà mấy tầng lầu khá lớn. Tôi đứng lại nhìn thì thấy một quan chức trong xe bước ra, tay xách chiếc vali nhỏ, mặc bồ đồ ký giả màu xám tro, tóc chải ngược phía sau gọn gàng lắm, tôi nhìn kỹ và nhận ra ngay đó là tướng Trần Văn Đôn, thời ông cùng Tôn Thất Đính và Dương Văn Minh làm đảo chánh 1963 truất phế Cụ Diệm. Tôi biết mặt ông cũng như các ông tướng khác vì thấy đăng hình trên báo nhiều, ông nhìn quanh rồi cúi đầu đi thẳng vào trong tòa nhà ấy cùng với mấy người khác trong gia đình ông ta thì phải, sau đó có tiếng trực thăng bay đến, có lẽ là ông cũng đang di tản.

Về nhà, tôi nghe Mỹ Lệ kể thì cũng được biết chị của nó làm việc ở trường Đức Trí và cũng được ông hiệu trưởng sắp xếp vào trong tòa đại sứ Mỹ di tản rồi, ở nhà còn mỗi mình nó và dì Năm đang khóc, tôi bần thần không biết làm gì cho qua thời gian, tối đến Tí Ti qua bảo anh Lân qua ăn cơm bên nhà em, anh Thành sáng nay về Mỹ Tho rồi, tôi cũng buồn buồn qua ngồi cho có vị chứ chẳng ăn gì, được một lúc rồi quay về phòng trọ, nằm suy nghĩ không biết nhà mình bây giờ như thế nào rồi. Mãi sau này tôi mới biết là chiều 29/4, lúc ấy anh rể tôi đã về Mỹ Tho rồi, vì mẹ tôi làm lao công trong Doanh trại Hải Quân, đó là bộ Tư lệnh Lực lượng Tuần thám Hải quân, có người cháu họ xa là Đại úy Tường, bảo với mẹ tôi rằng, O có sắp xếp gia đình đi được thì tối nay lên tàu cùng đi, ra biển có Hàng không Mẫu hạm đón, mẹ tôi về nhà bàn bạc rồi quyết định không đi, vì tôi đang kẹt ở Sài Gòn nên tội nghiệp tôi, không muốn gia đình bị chia cắt. Đại úy Tường sau đó đưa gia đình đi theo cùng mọi người trót lọt, còn gia đình tôi thì vẫn ở Mỹ Tho, trông ngóng tin tức tôi về.

Và rồi những điều tồi tệ đã xảy đến cho Sài Gòn như ngày nay chúng ta đã biết qua Internet, Nguyễn Văn Thiệu rồi Nguyễn Cao Kỳ ai nấy đều mạnh miệng tuyên bố tử thủ rồi cũng rút dù không kèn không trống, chỉ thương những người lính ở lại, nghe đâu một số quyết tử ở Bộ Tổng Tham Mưu, ở Trại Dù Hoàng Hoa Thám gần Ngã tư Bảy Hiền, và một số Thủy quân Lục chiến ở Xa lộ Biên Hòa ngõ vào Thành phố, trong số TQLC ấy có cậu ruột tôi là Thiếu tá Bùi Bồn, sau khi bắn cháy mấy chiếc T54 rồi cũng thất vọng cho tình hình bi đát của Sài Gòn nên quay trở về nhà với tâm trạng buồn chán ê chề. Suốt đêm 29/4 tôi không ngủ được nên sáng ra lấy xe đạp chạy lên Dinh Độc Lập xem thế nào, dọc Đại lộ Thống nhất vắng như đám ma, chỉ có mấy phóng viên nước ngoài đi dọc tòa đại sứ Mỹ để chờ đợi những khoảnh khắc lịch sử. Tôi thấy một phóng viên nước ngoài cao lớn, mặc nguyên bộ đồ jean xanh, trước ngực và sau lưng dán tờ giấy có ghi chữ PRESS, tôi tiến lại gần và chào hỏi anh ta, bạo miệng hỏi: Can you help me go out Saigon now? Anh ta nhìn tôi rồi đứng lại nói: Why? Here’s the place where you born. Here’s your country. Why do you leave it? Don’t you love your country? Tôi thấy chẳng hy vọng được gì vì có lẽ anh ta là người cánh tả, thấy mình nhục mặt quá nên chào anh ta rồi bỏ đi.

Phía trên nóc Tòa đại sứ Mỹ, trực thăng vẫn bay quần quần rồi hạ xuống để di tản những người cuối cùng. Lính thủy quân lục chiến Mỹ từ Hàng không Mẫu hạm vào hỗ trợ cho việc di tản đứng trên sân thượng, người nào người nấy tóc hớt cao và rất là to con, họ im lặng không nói gì và súng tiểu liên trên tay lúc nào cũng lăm lăm chỉa vào người trước mặt. Sau khi di tản những người cuối cùng, các lính TQLC ấy cũng lên trực thăng và bay đi mất, để lại một tòa đại sứ trống không và vắng lặng. Tôi thấy một số người chạy vào trong tòa đại sứ nên cũng dắt xe đạp vào theo, tôi không vào tòa nhà chính vì cửa đóng, nhưng thấy tòa nhà màu trắng phía bên hông cửa mở toang nên vào để xem thử, thấy người ta lục tìm này nọ xem có lấy được gì không, tôi dựng xe đạp ở ngoài và đi vào thấy chẳng còn gì, chợt thấy một chồng bản đồ quân sự đẹp quá nằm trên bàn nên tôi ôm về, biết cũng chẳng làm gì nhưng thấy bản đồ chi tiết đẹp quá nên bỏ uổng. Trên đường về nhà, tiếng súng vẫn nổ phía xa xa hướng sân bay và bên Thị Nghè nên tôi cũng không ngại đạn lạc, về đến nhà cất bản đồ vào gần hơn nửa cái túi xách, nhưng sau này tôi sợ bị liên lụy quá nên phải đem đi đốt sạch, nghĩ thật là uổng, bởi coi trên đó thấy họ vẽ chi tiết lắm, đường lộ, đường mòn, núi non cao độ đều đủ cả, có bản đồ này mà Hướng đạo đi thám du thì nhất rồi, nhưng buổi giao thời nguy hiểm lắm, đành phải đốt bỏ mà lòng tiếc hùi hụi. Lúc ấy đã gần trưa, chạy ra đường Nguyễn Thông thì thấy người ta tụm năm tụm ba bàn tán, có những người lâu nay trốn quân dịch bây giờ ngang nhiên ra ngoài mà chẳng ngán ngại gì. Tôi nghĩ thôi thế là hết rồi, chẳng cái gì có thể cứu vãn tình hình bây giờ nữa, quả nhiên một lúc sau tôi vào nhà thấy dì Năm cùng Mỹ Lệ chụm đầu nghe tin tức trên đài phát thanh, tôi cũng vào nghe tướng Dương Văn Minh đọc tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, sau đó nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tự đệm đàn hát bài Nối Vòng Tay Lớn. Lòng chán chường, tôi bước lên gác nằm rồi thiếp đi tới chiều, không thấy đói, mặc dù từ sáng tới giờ chưa ăn gì vào bụng.

Chiều hôm đó, tôi ra ngoài xem tình hình như thế nào, thấy rất nhiều những thanh niên buộc băng đỏ trên tay lăm lăm súng đạn chạy trên những chiếc xe jeep bị quân đội bỏ lại, trong số đó có không ít những thành phần bất hảo ở khu tôi ở, bây giờ họ tự dưng trở thành nòng cốt của cách mạng, chúng tôi gọi họ là bọn cách mạng ba mươi, theo đóm ăn tàn, thực sự bấy giờ họ rất nguy hiểm vì chẳng còn luật pháp gì, họ tự mình thực thi luật bằng súng trên tay và mặt mày hả hê đằng đằng sát khí, tôi buồn quá, đi thẳng ra Ngã Sáu Hiền Vương, lúc đó khoảng gần hai giờ chiều, tôi thấy từng đoàn cán binh Việt cộng từ Ngã tư Bảy Hiền đi lên nội thành, người nào người nấy đen thui và mặt mày ngơ ngác, tay gườm gườm khẩu AK, vai đeo ba lô cột cả nồi niêu soong chảo, họ lầm lầm đi mà không nói gì hoặc chào hỏi ai cả, nhìn vẻ mặt ngơ ngáo của họ tôi biết ngay là bộ đội miền Bắc chứ không phải Việt cộng trong Nam, bởi ngày xưa tôi thấy xác chết các Việt cộng trong Nam thì mặc đồ thường dân chứ không mặc quân phục màu xanh như vậy, vẻ ngơ ngác đến ngạc nhiên của họ khi thấy một thành phố hoa lệ tân tiến như thế này sao lại thất trận được nhỉ? những câu hỏi ấy theo tôi mãi đến về sau cũng tốn khá nhiều bút mực của những nhà viết sử. Họ đi từng đoàn dài và mất hút phía cuối đường Lê Văn Duyệt. Đó là lần đầu tiên tôi thấy Bộ đội Bắc Việt trên đường phố Sài Gòn.

Lúc đó ở phía trước trường Hiền Vương ngay Ngã Sáu, có mấy đống quần áo lính chất cao như cái nhà, và cả mấy đống vũ khí đạn dược chất đầy ra đó, ai ưng lấy gì thì lấy, tôi cũng lại xem và lấy một khẩu ru-lô vì thấy nó mới và đẹp quá, định giắt cạp quần đem về chơi, nhưng nhìn sang bên kia đường, thấy người ta ùn ùn vào trong Quân tiếp vụ hôi của, người thì lấy gạo, đường, dầu ăn, thuốc lá… và bất cứ thứ gì lấy được thì cứ ôm về, tôi lang thang đến thấy ai đó quăng một hộp thiếc dầu ăn loại hai ba kg gì đó thì cũng lượm về, tôi không dám vào trong vì người ta đông quá, với lại lòng chán nản quá nên không thiết gì nên quay về, đi ngang qua đống súng đạn hồi nãy, tôi quăng lại khẩu súng cho yên kẻo sợ liên lụy về sau bởi tôi đâu cần nó làm gì, về nhà, tôi cho dì Năm hộp dầu ăn chứ tôi đâu còn gì nữa mà chiên với xào?

Đến chiều thì có một số báo Tin Sáng hay gì đó ra số đầu tiên sau 30/4, tôi xem thì thấy có đăng hình phái đoàn Bắc Việt của Ban quân sự 4 bên ở trại David Tân Sơn Nhất, đây là lần đầu tiên tôi thấy hình Việt cộng một cách công khai trên báo chí. Thế là hết. Hóa ra sự đổi thay đất nước nhanh như trở mặt bàn tay, không cần biết đến ý chí và nguyện vọng của người dân thông qua lá phiếu mà bằng tham vọng chủ nghĩa, bằng súng đạn và bằng máu, biết bao nhiêu máu xương đổ xuống, trong đó có cả anh em bà con của tôi và của mọi người hai miền, chỉ để lại một Sài Gòn tang thương và những đứa cách mạng ba mươi tay lăm lăm khẩu súng ngang dọc trên đường như ta đây có quyền làm chủ, có quyền sinh sát bất kể những ai bất đồng với chúng. Giới lãnh đạo im bặt, trường học đóng cửa, ba bên bốn bên gì đó giờ ngậm tăm như hến trước họng súng của kẻ chiến thắng, không ai dám hé môi nhắc đến Hiệp định Paris là gì, vì quyền lực bây giờ thuộc về bên thắng cuộc, lý của kẻ mạnh bao giờ cũng đúng, có ngậm ngùi đi nữa thì cũng chỉ biết cúi mặt nhìn tương lai xám xịt như một bức tranh đẹp bị kẻ khác phết màu xám nguệch ngoạc ngang dọc lên đó mà thôi. (TOP)

Đi Kinh tế mới Ba Bèo

Ba hôm sau thì Châu lên Sài Gòn mang tiền xe cho tôi, bảo rằng Mỹ Tho cũng giải phóng một ngày sau đó, tôi hỏi thăm gia đình thì biết được rằng gia đình vẫn bình yên. Tôi thu dọn đồ đạc rồi từ giã Dì Năm, Mỹ Lệ và Tí Ti ra về. Sau biến cố này mới thấy mặt anh của Mỹ Lệ, vì giờ này anh nó không còn bị bắt quân dịch nữa nên khỏi trốn, về ở luôn trong nhà. Mỹ Lệ thì cứ tưởng tôi sẽ quay lại Sài Gòn nên vẫn vui vẻ như bình thường như không có chuyện gì xảy ra, còn gia đình Tí Ti thì khác, hóa ra đến giờ đó tôi mới biết gia đình nó thân với Việt cộng khá lâu, bởi bà con của ba mẹ nó toàn ở ngoài Bắc, cũng đi bộ đội và làm cán bộ gì đó rất nhiều, mẹ nó thì không sao, bà gởi tặng tôi chiếc quần tây đem về, nhưng ba nó thì hờ hững ra mặt, vì ông biết chúng tôi không thích giải phóng lắm, có vẻ như ông đang mong bà con từ ngoài Bắc vào, do đó mà Tí Ti cũng chỉ ậm ừ với tôi vài câu cho có vị rồi xuống bếp, thế rồi tôi quay về, bởi thấy bây giờ chỉ có gia đình mới là nơi gắn kết với mình hơn cả, những cuộc tình sẽ rất chóng qua, mau như biến cố ba mươi tháng Tư vậy thôi mà.

Về đến Mỹ Tho thì gia đình tôi mừng lắm vì ai nấy đều bình yên, tôi nghe kể lại thì cũng hơi tiếc vì sao gia đình không đi theo tàu Hải quân trước đó cho yên, nhưng cũng bởi vì thương tôi mà ra cả. Thôi thì cứ chuẩn bị đối phó với những tháng ngày u ám sắp tới là vừa. Thăm gia đình xong, hôm sau tôi lên nhà Phước, gặp cả Trung đang ở đó và hầu hết tất cả anh em nam trong ca đoàn, có một số bạn nữ nữa, Phước kiếm đâu mấy chai rượu đế và chúng tôi ngồi nhậu, vừa hát vừa khóc cho đất nước tang thương, tương lai mịt mù không biết tính sao, thôi thì cứ mặc. Chúng tôi kể chuyện Sài Gòn cho mọi người nghe, ai nấy chẳng biết tương lai có còn học tiếp được nữa không? Biết bao câu hỏi cứ lẩn quẩn trong óc, cố gắng tìm một câu trả lời cho phù hợp cũng thật là khó.

Mãi đến tận bây giờ, không những tôi mà hằng triệu người khác vẫn còn đặt câu hỏi về hai chữ giải phóng. Ai giải phóng ai? Chúng tôi bị bức bách gì mà phải giải phóng? Nhưng chuyện này để cho lịch sử phân tích và phán xét, chứ lúc đó những người như chúng tôi và nhân dân miền Nam như con cá nằm trên thớt, đành phải hòa nhịp cuộc sống mà tồn tại thôi. Được mấy ngày thì chính quyền bảo phải làm bảng kê khai tài sản trong nhà, rồi sau đó là những cuộc mít tinh mọi người 3 giờ sáng phải ra tập họp ngoài sân vận động, rồi đến ngày đổi tiền, những người giàu có cũng mệt vì họ chỉ cho đổi có 100 nghìn tiền VNCH thôi, còn những nhà nghèo như gia đình tôi thì không có đủ tiền để đổi, thời gian ấy bên nhà cậu Thạnh của tôi cùng lúc hai người con trai đầu là Thắng và Vinh bị sốt rét qua đời cùng một lượt, phải gom tiền lẻ lại đi mua hòm. Tôi có quen một vài người bạn nhờ họ đổi giùm cho dì Báu và cậu Thạnh nên mới có đủ tiền chi dụng cho đám tang, thực sự rất bi thương không ai ngờ đến.

Nhà tôi bấy giờ chỉ còn trông cậy vào chị kế tôi đang làm Thư ký trường Gioan 23, lúc ấy họ gây áp lực phải hiến lại trường cho nhà nước, vì vậy mà nhà tôi chỉ lãnh được mười mấy kg gạo của họ trả cho chị tôi cầm hơi mà sống. Trong xóm họ gây áp lực hầu như là bắt buộc đi kinh tế mới nên gia đình tôi đành phải ghi tên đi, nhận mấy chục đồng và mấy kg gạo, tôi và anh ruột tôi cùng đứa em trai út phải lên đường đi kinh tế mới tại Ba Bèo, chúng tôi gỡ mấy tấm tôn sau bếp còn dư và một số cọc sắt cùng các vật dụng linh tinh khác, theo xe đò về Long Định rồi đi đò vô Ba Bèo, tới nơi thấy đồng nước mênh mông, xa xa mới có một ngôi nhà, họ bảo muốn chỗ nào cứ chọn chỗ đấy. Anh tôi chọn một khoảng đất hơi nhô cao hơn một chút rồi chúng tôi chuyển đồ xuống dựng nhà, như một cái chòi tôn nhỏ giữa đồng không mông quạnh đầy những nước và muỗi, nhìn nước thấy trong veo thì tưởng bở, ngờ đâu đó là nước phèn đắng chát uống vô là bệnh ngay, cho nên phải quậy phèn chua vào gạn ra rồi mới lấy nước đó nấu cơm được. Thì ra cũng vì điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt như thế nên nơi đây người ta bỏ hoang, không ai thèm nhìn tới, muốn canh tác, phải đắp bờ bao các thứ mới có đất mà trồng bắp trồng rau, chứ nước phèn ngập ngụa như thế thì không làm gì được.

Hôm sau tôi và anh tôi đắp thử được mấy luống thì cũng chịu thua vì chẳng thấm vào đâu, nước ngập tới bụng, mỗi lần xúc lên được một xẻng đất thì mệt bở hơi tai, hèn gì những ngôi nhà lúc chúng tôi đi thuyền ngang qua đều thấy chỉ được vài mảng đất chừng vài chục mét vuông để dựng nhà thôi, còn bao nhiêu mênh mông là nước phèn, như vậy thì làm cái gì được để sống bây giờ? Nhìn tương lai trước mặt đen như mõm chó, tôi chỉ biết cắn răng mà chịu, hóa ra lâu nay mẹ và chị tôi lo cho tôi được ăn học đàng hoàng, tuy cũng vất vả, nhưng không bằng một góc bây giờ, tôi tự an ủi mình thôi thì đành phải chịu vì hầu như ai cũng khó khăn như vậy thôi. Tuy nhiên sức người có hạn, và khi làm điều gì mình phải biết đoán trước kết quả thì mới bỏ công sức ra làm, chứ cứ cắm đầu làm mà biết trước là công cốc thì phí thời gian làm gì, do vậy mà tôi nói với anh tôi thôi thì đành phải bỏ thôi anh ạ, có gắng cách mấy nữa thì cũng vô ích thôi chứ có được gì đâu. Anh tôi cũng thấy nản nên nói thôi, để tôi và em tôi quay lại Mỹ Tho đi, anh tôi cũng sắp sửa dọn đồ rồi quay về bên quê vợ của ảnh ở Cai Lậy sau, và thế là chỉ được hơn một tuần, tôi và em trai tôi lội bộ băng qua đồng nước mấy cây số mới ra tới bến đò đề về lại Mỹ Tho.

Cả nhà tôi cũng đã đoán trước kết quả như vậy nên khi chúng tôi về cũng không ngạc nhiên lắm, thôi thì đành chịu vậy, tồn tại được ngày nào hay ngày đó. Vài hôm sau, tôi lên Sài Gòn lại và đến trường xem thông báo thế nào thì thấy đóng cửa im ỉm, hỏi một vài bạn thì được biết là bây giờ trường đóng cửa vì một số giáo sư đã ra nước ngoài, cũng như tình hình mới chưa tiến hành được, sinh viên chỉ đến sinh hoạt tập trung lao động đợi thông báo mới, hỏi ra thì ăn rồi đi mít tinh và đi lao động nơi này nơi khác, ăn uống thì sinh viên tự lo lấy, do đó mà có không nhiều sinh viên trụ lại được, hầu hết bỏ về nhà, và với những kẻ nghèo khó như tôi thì lấy đâu ra tiền thuê nhà và tiền ăn uống để mỗi ngày lên trường làm những việc dở hơi đó? Do vậy mà tôi quay về Mỹ Tho, cứ chờ đợi coi sau này tình hình học tập có sáng sủa hơn được chút nào chăng rồi hãy tính.

Bấy giờ, thanh niên trong xóm được tập trung lại thành đội thanh niên xung kích, tiền thân của đoàn thanh niên cộng sản sau này, nhưng hồi đó chỉ gọi là đoàn thanh niên lao động thôi, có bạn gì đó tên Định ở ngoài phường vào kêu chúng tôi tham gia, mình không tham gia thì bị gọi là chống đối, nên tôi, Dũng con bác Khảo và Khang cùng ra phường tham gia sinh hoạt văn nghệ. Dũng và Khang đều ở Tiểu chủng viện Gioan 23 về nên chúng tôi rất thân. Trong nhóm thấy tôi có khả năng nên giao cho tôi làm đội trưởng văn nghệ, tập hát cho các bạn cùng tuổi và các em học sinh lớp 11, 12 trong phường. Tôi lập đội văn nghệ rồi tìm các bài hát cách mạng đem ra tập nào là Sài Gòn quật khởi, Bão nổi lên rồi, Tiếng hát những đêm không ngủ… cùng vô số bài khác, chúng tôi diễn tại sân khấu trong phường rồi đi hội diễn ở trường La San và trường Việt Tú. Không có việc gì làm nên lâu lâu tôi mới về nhà ngủ, còn thường thì tôi lên Nhà thờ Nữ Vương ở với Phước, vì Cha sở họ Nữ Vương Hòa Bình bị chính quyền bắt đi học tập nên giao nhà thờ lại cho Phước, như một ông từ chăm coi nhà thờ, trưa chiều hai anh em nấu cơm ăn, sáng lo mở chuông dọn lễ và hát lễ, biết rằng cuộc sống thật là vô vị, tương lai đen tối, nhưng biết làm sao bây giờ? Chính giải phóng đã đưa chúng tôi đến tình cảnh này, không chỉ ở riêng Mỹ Tho mà cả toàn miền Nam đều chịu chung số phận như vậy, tôi nghĩ đây là quãng thời gian vô bổ nhất của tôi trong cuộc đời. (TOP)

Gặp Vợ tôi

Nói vô bổ, không phải là vứt đi, bởi Tạo hóa đã sắp đặt cho con người những tình huống này nọ để sinh tồn và để mưu cầu hạnh phúc. Trong những ngày đó, tôi gặp hai cô nữ sinh cũng tham gia thanh niên lao động như chúng tôi, một cô là Thanh, một cô là Thảo, hai cô này đang học lớp 11 và nhà cũng ở trong cư xá như tôi, nhưng ở phía đường Thủ Khoa Huân, bọn con trai chúng tôi bắt đầu để ý và tìm hiểu, thì ra Thảo ở sát ngay cạnh nhà cậu tôi là Lớp nhạc Chim Quê hương, Khang nó lân la làm quen với Thanh, còn tôi thì làm quen với Thảo, bởi tôi thấy nàng ít nói, thường xuyên đi lễ vào mỗi buổi chiều và luôn kẹp cái kẹp màu vàng cam trên tóc, hàng ngày tôi thấy nàng đạp xe đạp chạy ra chợ, sau này tôi mới biết là nàng ra phụ mẹ bán hàng ngoài chợ. Thấy vậy tôi ưng bụng lắm, bởi độ tuổi thiếu nữ như thế mà biết dành thời gian phụ cho mẹ thì tốt lắm rồi, và thế là một lần nọ sau khi đi lễ về, tôi làm quen với Thảo. Nàng thì biết tỏng tôi là ca trưởng ca đoàn của xứ từ lâu rồi, và là cháu của chú nhạc sĩ Bùi Tuấn Anh ở sát bên nhà nàng, tôi hỏi vì sao mà biết thì nàng bảo năm kia nàng có học guitar bên lớp nhạc Chim Quê Hương của cậu tôi, hôm đó tôi đến nhà cậu tôi chơi và xem người ta học đàn, thỉnh thoảng phụ với cậu tôi kềm cặp cho họ, tôi thấy một cô bé ngồi đàn nhưng đàn sai quá thể, tự nhiên tôi ngứa tay bảo Em đàn sai rồi, để tôi hướng dẫn lại cho. Vừa cầm cái cần đàn của nàng thì nàng giựt lại, không cho tôi cầm, tôi trố mắt nhìn bảo: Yên tâm đi! Để tôi hướng dẫn lại cho, và thế là nàng để tôi hướng dẫn. Sau này nàng về nhà bảo rằng cái anh chàng sinh viên này vô duyên quá, tự dưng nhào vô chỉ trỏ lung tung, nghe kể lại hóa ra là nàng, và thế là từ đó tôi cảm thấy gắn kết với nàng nhiều hơn, bởi nhìn nhận đây đúng là cô gái mình yêu, bởi cô ấy không se sua chưng diện, rảnh ra là phụ với mẹ, lại siêng năng đạo đức làm tôi rất an tâm, không như các cô gái khác của tôi trước đây đỏng đảnh và hời hợt. Tôi tự nhủ thầm rằng nếu mai đây mình cần có một người bạn đời, thì đó chính là nàng chứ chẳng ai khác.

Tôi mạnh dạn đến nhà Thảo và gặp ba mẹ nàng, tính tôi vốn dạn dĩ nên không ngại ngùng gì. Ba mẹ nàng biết tôi là ca trưởng ở nhà thờ nên không ngăn cản gì khi chúng tôi gặp nhau trò chuyện, rảnh ra thì tôi bảo đem Toán ra cho tôi xem để tôi hướng dẫn cho, nàng nghe lời tôi lắm, tuy học không giỏi nhưng nàng cũng thuộc loại khá trong lớp. Lớp nàng cũng có một số bạn trai ngắm nghía đến nàng, trên lớp thì tôi không rõ lắm, nhưng tôi biết có Hòa học sau tôi hai lớp, là một Hướng đạo sinh cùng thời với tôi cũng theo đuổi nàng. Hòa con nhà giàu, tôi có gặp Hòa đến nhà nàng chơi đi xe máy chứ không phải như tôi, về sau Hòa biết tôi là bạn trai của nàng thì không còn theo đuổi nàng nữa, nghe Nam là ca viên trong ca đoàn tôi kể lại vì Nam học cùng cấp với nàng trong trường, bảo rằng có một số bạn khác cũng theo đuổi nàng, nghe đâu tôi là bạn trai của nàng thì rắp tâm định đập tôi một trận để dằn mặt, nhưng sau thì họ biết tôi cũng có tiếng tăm lâu nay, lại là sinh viên, học hơn họ hai lớp nên họ từ bỏ ý định đó, mà nói thật, hồi đó tôi cũng chịu chơi lắm, nếu uýnh nhau thì uýnh liền chứ chẳng ngán, bạn bè tôi mà biết tôi bị uýnh thì họ kéo đến làm cỏ chúng nó ngay, nhờ vậy mà yên chuyện.

Thỉnh thoảng tôi có xin phép dẫn Thảo đi ăn chè, và ba mẹ nàng cũng bằng lòng, nhưng lúc nào mẹ nàng cũng dặn tôi phải về sớm này nọ, còn ba nàng thì sau này tôi nghe nói là cụ bảo Tao chấm thằng này được rồi đó. Tôi còn nghe nói là lúc đó Thảo nói con chỉ yêu anh Lân thôi còn không thì con ở vậy. Thư tình tôi viết cho nàng chẳng hiểu sao mà một hôm nọ tôi thấy có cả dòng chữ của chị nàng phân tích từng câu từng chữ của tôi, và bảo rằng tôi là người chân thật. OK. Mà không chân thật sao được? Thời ấy vì tôi yêu nàng nên tôi mới vậy, chứ ngoài đời không thiếu gì cô khác xinh đẹp hơn, bởi tôi dạy Bổ túc văn hóa tại Trường Nữ Tiểu học, lớp của tôi là lớp Ba, trong đó có 40 người hầu hết là ông bà cán bộ mù chữ, nhưng lại có khoảng ba bốn cô con gái hơ hớ mà lại đi học lớp Ba bổ túc, tôi lấy làm lạ hỏi họ vì sao lại thất học thì họ chỉ cười mà thôi, họ còn mời tôi đến nhà chơi, một người có nhà là một vựa ve chai rất lớn và rất giàu tên là Kiều, cô này mặt mày già dặn và không đẹp lắm, nhưng đối với tôi rất thân tình và nhẹ nhàng, một người khác nhà có tiệm uốn tóc lớn gần đấy tên là Vân Phi, còn cô kia thì tôi không nhớ tên. Thì ra các cô ấy cố tình đi học để trêu tôi, họ cũng đã đến nhà tôi chơi vài lần nhưng tôi không thân thiết lắm. Vân Phi mời tôi đi uống nước hoài, phải nói là cô ấy cũng khá xinh, nhỏ hơn tôi 2 tuổi, đi học mà mang jupe, dáng người không có vẻ nào là thất học cả, sau này hỏi thẳng và biết rằng cô ta đi học chỉ để nghịch thôi và có vẻ như cô ta yêu tôi thì phải? Cô Kiều ấy thấy Vân Phi gần gũi thân thiết với tôi quá nên cũng lãng đi, không đến nhà tôi nữa. Vân Phi thường xuyên hẹn đến nhà chơi và cô ta coi tôi như bạn trai chứ không phải là thầy giáo nữa, trong lúc đó thì tôi đã yêu Thảo rồi nên tôi tìm cách từ chối hoài thôi. Một lần nọ, tôi từ trong nhà văn hóa bước ra đang nói chuyện với Thảo thì cô ta mang chiếc jupe ngắn, đi chiếc xe mini tiến lại, bạo dạn rủ tôi đi chơi, bảo rằng ngày mai em phải về quê ăn tết rồi, chỉ còn đêm nay thôi, anh đi chơi với em đi. Tôi bảo không được đâu, tôi đã có người yêu rồi. Cô ta nhìn thấy Thảo và quay ngoắt đi, từ đó về sau vợ tôi vẫn hay chọc tôi với cô này, thậm chí là giận tôi mất mấy ngày nhưng tôi bảo: Thì em thấy đấy, anh chỉ chung thủy với em thôi mà. Kể từ khi ca đoàn biết Thảo là bạn gái của tôi thì mấy nàng Minh Hương, Ngọc Mỹ biết là xong rồi, không còn chìu chuộng tôi nữa, hở ra là chọc tôi với Thảo mà thôi. Tôi vẫn cười cười và trong lòng dậy lên nhiều nỗi lo âu, bởi tới thời điểm đó, tôi vẫn chưa làm được việc gì ra hồn để phụ giúp gia đình, xấu hổ thật đấy chứ, nhưng cũng đành chịu vì tương lai ai cũng vậy thôi.

Những tháng ngày tiếp theo đó thật là ngột ngạt, ba của Thảo bị quân giải phóng bắt đi học tập lần nữa, bởi nghe đâu có ai tố cáo là ông này tuy ngày xưa chỉ là Thượng sĩ thôi nhưng lại chơi thân với mấy ông tướng lắm, thế là họ đưa đi ngay, gia đình thì họ bắt phải đi kinh tế mới chứ không được ở đây nữa, mẹ nàng buồn và lo lắm, mua lại của anh em mấy miếng ruộng ở Cái Sắn Rạch Giá để chuẩn bị họ đuổi đi thì đi, buôn bán lại ế ẩm chứ không được như xưa. Thảo lúc đó đã bước sang lớp 12, vừa học vừa lo phụ mẹ nên thấy thương lắm. Còn bên gia đình tôi càng khó khăn hơn, sau khi đi kinh tế mới Ba Bèo bị thất bại thì gia đình tôi cũng phải tìm chỗ khác mà đi thôi. Anh chị cả của tôi quyết định lên nương náu vùng đất đỏ Bình Ba nơi dì tôi ở mà tôi đã có lần kể trước đây khi đi dự đám cưới. Anh rể tôi xin vào làm công nhân cạo mủ cao su, còn chị tôi làm bánh bèo bánh ít bán lặt vặt cho công nhân qua ngày. Tôi hỏi thăm bạn bè thì biết rằng tình hình trên trường Đại học cũng vẫn vậy, đi lao động và hội họp các thứ mà thôi, do đó kể như tôi phải chấm dứt việc học hành từ đây, gia đình làm gì có tiền để tôi lên trên ấy ở không mà đi làm chuyện tào lao của giải phóng? Tôi quyết định sau Tết sẽ từ bỏ tất cả, lên Bình Ba để xin làm công nhân như anh rể tôi để có công việc sống qua ngày chứ mình cũng đã trưởng thành, không thể lông bông mãi như vậy được, nơi đây cũng có dân từ Biên Hòa bị đưa về làm kinh tế mới nên mình cũng như bao người, phải chấp nhận cuộc sống mới thôi, biết chắc rằng sẽ rất gian khổ, nhưng chúng ta không còn có được sự lựa chọn nào khác.

Những tháng ngày ấy buồn chán hơn bao giờ hết, nhưng may là tôi đã gặp Thảo, tình yêu của tôi, thấy nàng ngoan hiền đạo đức và chăm chỉ phụ giúp cho gia đình thì tôi thấy mình có một người bạn gái như vậy thật không gì quý hơn. Tôi vẫn thường nói với nàng và gia đình nàng rằng nhà tôi nghèo lắm, nhưng nàng hiểu và tin vào ý chí của tôi nên nàng yêu tôi. Tôi bảo yêu nhưng phải gắng học vì năm sau là thi Tú tài rồi, đừng để mang tiếng là do yêu mà xao lãng việc học thì cũng chẳng hay ho gì. Nhà tôi thì chị kế ngoài việc lên trường làm thư ký thì chị còn nhận thêm việc may áo gối ở cơ sở nào đó trên Hàng Cồng, trường Gioan 23 đóng cửa và họ chuyển chị tôi về Trường Tiểu học Nguyễn Huệ gần Hàng Cồng, do đó mà chị quen nhiều người, trong đó ngờ đâu lại có Cẩm Thủy, là cô nàng vừa đàn vừa hát mà tôi tán tỉnh nàng lúc trước như tôi đã kể. Cẩm Thủy cũng may áo gối như chị tôi, biết tôi là em của chị nên thân với chị lắm, có đến nhà tôi chơi mấy lần. Hôm đó nhà tôi nấu chè và mời Cẩm Thủy đến chơi, thấy vậy tôi cũng mời Thảo qua chơi, đôi bên gặp nhau cũng không xa lạ gì, vì Thảo biết rất rõ Cẩm Thủy ở trường rồi, Cẩm Thủy biết Thảo là bạn gái tôi nên nàng cũng lửng lơ, không nói gì, chỉ cười cười cư xử với tôi rất tự nhiên và cùng tôi hát mấy bài của Lê Uyên Phương, còn Thảo ít biết hát nên chỉ ngồi cười cười nói chuyện thôi, vì Thảo biết tôi đã yêu nàng rồi nên đâu sợ tôi đi theo bóng hình khác nữa. Sau lần đó thì tôi không còn gặp Cẩm Thủy lần nào nữa.

Tết Bính Thìn năm đó thật buồn, nhà tôi phải bán đi từng thứ để tồn tại qua ngày và chuẩn bị cho việc đi kinh tế mới lần nữa, nhưng lần này là tự túc vì lần trước đã nhận tiền trợ cấp rồi, tôi phải lên nóc nhà gỡ hết tôn ra đem bán và lấy trần nhà bằng ván ép che lên tạm vì đằng nào chị tôi cũng đã phải quyết định bán nhà. Bên nhà Thảo cũng bị hối thúc đi kinh tế mới như thế, nhưng mẹ nàng vẫn cứ lần lửa chưa đi, tôi đến thăm và cũng nói rõ ý định của mình là sau Tết con sẽ lên Bà Rịa kiếm việc làm và trình bày thẳng là chúng con thương nhau, muốn xây dựng hạnh phúc cho nhau, mẹ nàng cũng đồng ý và bảo tôi đi thăm cha nàng để trình bày với ông cho ông biết. Tôi và Thảo đạp xe đạp đi thăm ông ở trại tạm giam bên kia Cầu Quay, gặp ông đứng sau hàng rào cách biệt hai bên, tôi và Thảo cũng thưa chuyện với ông như vậy, ông thấy tình cảnh hai bên tôi thì về miền Đông, nhà nàng thì chuẩn bị về miền Tây, nếu hai đứa thương nhau mà cách trở như vậy thì khó khăn quá nên ông vui vẻ đồng ý, ông bảo tình cảnh Cậu bây giờ như vậy cũng đành chịu, chẳng giúp gì cho hai con được. Đó là tôi chỉ trình bày lòng mình thế thôi, chứ chúng tôi đâu đã dám biết khi nào mới cưới nhau được? Bởi tôi cũng đã có công việc làm gì đâu, và Thảo cũng phải học cho xong lớp 12 và đậu Tú Tài đã rồi tính. Chia tay ông, chúng tôi ra về mà lòng buồn rười rượi.

Ngày tết mà buồn lắm, tôi chuẩn bị từ giã anh chị em ca đoàn và giao ca đoàn lại cho Đức là ca phó, trước giờ Đức chỉ đánh đàn thôi, nhưng hoàn cảnh như vậy thì phải nhận lời dẫn dắt ca đoàn trong tình hình này thôi. Sau tết năm đó, trước ngày đi, ca đoàn tổ chức một buổi hành hương lên Fatima Bình Triệu để tiễn chân tôi. Lúc đó ca đoàn cũng vững mạnh lắm, gần bốn chục người hát đủ bốn bè và cũng mới sắm đồng phục nữa nên hoành tráng lắm. Chúng tôi bao một chiếc xe đò lên Sài Gòn và mọi người đi đông đủ cả. Đến nơi, chúng tôi liên hệ với Cha sở ở đó và xin cha cho ca đoàn chúng con được hát lễ chiều Thứ Bảy hôm đó. Cha thấy ca đoàn chúng tôi nền nếp nên đồng ý ngay, còn sắp xếp mấy phòng cho chúng tôi trú lại đêm đó trên dãy lầu phía sau. Chiều đó ca đoàn tôi hát lễ thật sốt sắng, vì là chiều Thứ Bảy thay cho Chúa nhật nên giáo dân rất đông, gần kín cả nhà thờ, rất may là lúc ấy có Linh mục Nhạc sĩ Huyền Linh chạy nạn từ miền Trung vào đang trú tạm ở nhà thờ, cha là tác giả bài Ave Maria con dâng lời chào Mẹ và bài Ôi Giêsu Vua muôn vua mà hầu như ai cũng đều biết, cha ra đàn cho ca đoàn chúng tôi hát nữa nên chúng tôi rất phấn khởi và cám ơn cha vô cùng. Hôm đó Thảo tuy lâu nay không tham gia ca đoàn nhưng cũng cùng đi hát chung để tiễn tôi vì nàng cũng có chiếc áo dài màu hồng đồng phục của ca đoàn nên đâu có ai biết. Sáng hôm sau, tôi từ giã Thảo và chào mọi người rồi đón xe về Bà Rịa chuẩn bị cho một quãng đường gian lao mới, còn ca đoàn quay về lại Mỹ Tho, ai nấy cũng ngậm ngùi vì lần chia tay này không biết bao giờ gặp lại. (TOP)

Làm công nhân

Đến nơi, tôi đi tìm nhà anh chị tôi không khó vì sau khi làm công nhân, anh chị tôi đã được Nông trường cao su Bình Ba bố trí cho ở chung một căn nhà cùng với một gia đình khác, gia đình ấy có hai chị em tên là Đượm và Đà ở trong một gian phòng riêng, họ cũng là dân từ Bà Rịa lên, còn anh chị tôi và tôi ngủ bên ngoài. Anh rể tôi lúc đó cũng chưa được trả quyền công dân, tuy nhiên, dù mới về nhưng anh rể tôi cũng được bà con rất thương và được một dì nào ấy là gia đình cách mạng cho một miếng đất khoảng 3 sào để canh tác thêm mỗi buổi chiều sau khi đi cạo mủ về. Tôi nộp đơn vào nông trường và trong lúc chờ đợi, hàng ngày tôi vào trong rẫy phát hoang những bụi cây gai giúp anh tôi cho kịp vụ mùa bắp sắp tới khi trời đổ mưa, chiều về thì gánh nước phụ cho anh chị tôi đỡ mệt, lần đầu tiên tôi đâu biết gánh, đi nghiêng ngửa như người say rượu làm bọn con gái trong xóm chọc quê quá trời, nhưng được vài ngày thì cũng quen. Cứ mỗi chiều sau khi anh rể tôi đi làm về thì đưa tôi ra ngoài vườn cây cao su gần đó tập cạo cho quen, kể ra thì cũng không khó lắm, miễn sao đừng cạo thấu xương mà hư cây, cũng đừng cạo nhẹ quá mà chưa tới lớp mủ cho nó chảy ra, nói chung, nếu cạo vừa đủ lớp da và thật mỏng thì mới thật là đúng bài, bởi mủ sẽ ra nhiều và cây không bị hao vỏ. Tôi thử tập mấy ngày cũng tàm tạm, nhưng cũng vẫn bị thấu xương cây nhiều. Có ai ngờ đâu một anh chàng sinh viên chỉ biết cầm bút mà ngày nay phải cầm con dao cạo đi vòng quanh gốc cây? nhưng tôi cũng chẳng xấu hổ gì nữa, hạnh phúc chỉ đến với những gì do chính mình tạo ra mới quý, bởi cuộc sống vốn không phải là một mặt bằng hay đường thẳng tắp đâu, vì thế mà đừng có mơ, cứ tiếp tục nếm chông gai cho quen để mà tồn tại thôi.

Một tuần sau thì tôi được nhận vào làm công nhân cạo mủ cao su. Mỗi buổi sáng anh tôi và tôi dậy sớm lúc 4g để nhóm bếp nấu cơm bới đem theo, mỗi người một lon guigoz, thức ăn thì hầu như chỉ có cá khô mà thôi. Anh chị tôi kiếm cho tôi một bộ đồ lao động dày và rộng thùng thình, quấn khăn ngang cổ vì đi làm phải che hết mặt mày không thôi muỗi nó cắn ghê lắm. Vì là công nhân mới nên tôi đâu có phần cây riêng của mình? Những người đã có phần cây, tức là lô A, lô B, lô C thì tiện hơn, vì họ cứ đi làm xoay vòng hôm nay A thì ngày mai B rồi đến C chẳng hạn, sáng ra họ cứ lên xe tải và xe chở đến phần cây của mình theo từng tổ, còn tôi thì mới nên phải ra đứng xếp hàng chờ chực như một chợ người vậy, các tổ trưởng hễ nghe ai báo bệnh nghỉ thì tổ trưởng sẽ kiếm công nhân mới vào thay thế chỗ đó, họ sẽ đi ngang chợ người chúng tôi, gọi là công nhân vô-lăng, thấy ai được thì họ kêu đi trám vào chỗ công nhân nghỉ bệnh đó, còn nếu sau khi đã trám hết chỗ rồi mà vẫn còn dư công nhân vô-lăng, thì số công nhân này sẽ được bốc lên xe đi phát chồi ở các rỗng cao su cho sạch, tiền công phát chồi chỉ bằng 70% lương cạo mủ nên ai cũng muốn đi cạo cho lương cao hơn. Nói rằng cao, nhưng là cũng đủ chỉ để gắp mắm thôi chứ hay ho gì. Thời buổi ấy thì có hai loại công nhân cực khổ nhất, một là công nhân mỏ than, hai là công nhân cạo mủ cao su. Tôi gặp may vì anh rể tôi ở trong tổ của anh Ba Hiệp, trước đây anh Ba Hiệp cũng là trung sĩ của chế độ cũ nhưng gia đình thân nhân bà con là gia đình cách mạng nên anh mới được làm tổ trưởng. Anh Ba Hiệp rất quý anh rể tôi, vì dù sao anh rể tôi cũng là hạ sĩ quan Không quân ngày xưa, với lại anh rể tôi cạo mủ rất giỏi, lượng mủ thu được bao giờ cũng nhiều hơn những người khác, cho nên cứ mỗi lần tổ của anh Ba Hiệp có người bệnh nghỉ là anh chọn tôi vào thay thế, bởi anh biết rằng có anh rể tôi cạo mủ ở gần đó thì anh rể tôi sẽ qua phụ giúp tôi ngay.

Ngày đầu tiên đi làm, tôi phải làm ở một tổ khác nhưng cũng ở La Sơn, cách xa tổ của anh tôi gần cả cây số, tôi lóng ngóng đi cạo mủ phần cây của mình, tuy có tập rồi nhưng một mình mình đứng giữa vườn cây cỏ mọc um tùm cao quá đầu người thấy thật là gian khổ, ngày nay viết lại những dòng này vẫn cảm thấy rùng mình, phải cố gắng hoàn tất khoảng gần 300 cây cao su chậm nhất tới 9g phải xong để 10g trút mủ, tôi cạo được khoảng 150 cây thì rã cả người ra, vừa mệt vừa bị muỗi cắn, sương sớm vương trên cỏ làm tôi ướt hết cả phần thân bên dưới, bên trên thì mồ hôi ra ướt hết cả hai áo, nhưng vẫn phải cố mà làm, lòng cứ tự nhủ Lân ơi, mày phải cố gắng thôi, phải cố gắng thôi, chứ không còn cách nào khác đâu. Đến khi cạo được khoảng gần 200 cây thì nghe tiếng anh rể tôi gọi, tôi hú lên trả lời để anh tôi yên tâm, được một lúc thì nghe tiếng anh tôi gần hơn, thì ra anh tôi đã làm xong phần cây của mình từ lâu, lội bộ xuống đây để cạo phụ tôi ngược từ dưới lên, do đó mà tôi chỉ làm được khoảng 2 phần 3, còn 1 phần 3 còn lại anh tôi đã giúp tôi rồi, cũng may là tuy trễ hơn những người khác nhưng vẫn còn kịp để trút mủ. Trưa đến, anh rể tôi lội bộ xuống ăn cơm với tôi, anh đi hái lá giang, là một loại lá có vị chua mà ngày nay người ta thường nấu canh với thịt gà, rồi anh kiếm một cái tô mủ cao su sạch, nhóm bếp nấu một miếng canh lá giang với mắm ruốc mà anh tôi đã đem theo từ trước, nhờ có canh nên chúng tôi dễ nuốt hơn. Công việc cứ thế mà trôi, sáng nào tôi cũng phải ra cái chợ người ấy rồi đi hết phần cây này phần cây nọ, hết tổ này tới tổ khác, khi nào gần anh tôi thì có anh tôi đến phụ, còn những tổ khác, lô cao su khác thì tôi phải làm một mình, mệt nhọc muốn trào nước mắt nhưng tôi phải nghiến răng mà làm, vì mình đã lớn rồi, đã 20 tuổi rồi, không làm được thì xấu hổ với chính bản thân mình trước chứ chẳng phải vì ai.

Được khoảng một tháng phải làm công nhân vô-lăng chạy chỗ này chỗ kia, hôm nọ tôi được biết là tổ anh Ba Hiệp có người nghỉ thai sản 3 tháng nên anh Ba Hiệp cho tôi vào thay, tôi mừng lắm vì hồi này không phải làm chợ người nữa, sáng ra cũng có phần cây như người ta, lại có anh rể tôi ở gần đó nên tôi không lo lắm. Trong tổ này chỉ có mấy người đàn ông thôi, như Hoàng Lé trước làm du kích xã rồi đi lính, anh Thu là thợ sửa xe, cũng là lính chế độ cũ, anh Cang cũng là lính Địa phương quân ngày trước, anh rể tôi và tôi, còn lại bao nhiêu người đều là phụ nữ cả, họ thấy tôi là sinh viên mà phải lao động cực nhọc như thế này nên họ thương tôi lắm, những cái tên mãi mãi tôi không bao giờ quên trong những tháng ngày cay đắng cơ cực gian nan này: ngoài anh rể tôi thì không nói rồi, còn có cô Dương cách tôi ba bốn phần, Y Sa người Khmer con chú Y Ram tài xế cạo bên trái tôi, Bé Tư con anh tổ trưởng Ba Hiệp cạo bên phải tôi, rồi cô Lợi Phò và cô Mận con bà Tư Cưa ở các phần cây gần đó, hễ họ cạo xong là qua cạo phụ cho tôi, ngày này sang ngày khác, tháng này qua tháng khác, mỗi người năm bảy cây là tôi hoàn tất mau chóng, ngày nay đã hơn bốn chục năm qua, ngồi viết những dòng này, tôi vẫn nhớ và mang ơn các bạn muốn rơi nước mắt, cho rằng ngày nay tôi đã ổn định hơn, đã sung sướng hơn, nhưng các bạn thì vẫn còn ở mãi vùng đất cao su đất đỏ ấy. Lúc nào họ cũng xưng em với tôi và gọi tôi bằng anh Năm, họ không được học hành nhưng tấm lòng của họ cao quý quá, điều này đã an ủi tôi rất nhiều trong những tháng ngày cơ cực ấy.

Mùa mưa gần đến nên anh rể tôi đi tìm những lô cao su non mới trồng trên đồi La Sơn, cày xới lên giữa rỗng để canh tác thêm bắp đậu. Của đáng tội, tôi có biết gì về làm vườn làm rẫy đâu, anh tôi bảo làm sao thì tôi cứ thế mà làm, chúng tôi chọn bốn năm rỗng mà người ta chê, bỏ lại không làm, rồi cứ mỗi chiều sau khi làm công việc ở phần cây xong, chúng tôi ra đồi La Sơn để cày xới đất lên canh tác, anh tôi đã mang sẵn cái dụng cụ như cái cày tay vậy, dưới gắn cái mũi như đầu cái xẻng, phía trên chia làm hai nạng, một đầu đẩy, một đầu kéo, cái dụng cụ này thường người ta dùng để cày luống khi trỉa bắp, nhưng vì đất đó cứng quá nên chúng tôi phải cày ra trước đã cho đất tơi lên, thế là tôi kéo, anh tôi đẩy, ngày này sang ngày khác thì cũng xong một đám đất khoảng bốn năm sào để trồng bắp và đậu. Sức thanh niên như tôi ngày ấy không đủ ăn, người ốm như một thằng xì ke, thế mà cũng phải ráng sức thôi, mệt quá thì ngồi bệt xuống đó mà nghỉ, tới chiều tối thì hai anh em đi bộ về, vì xe chở công nhân họ về lúc 2 giờ chiều rồi. Riết rồi con đường từ đồi La Sơn về nhà khoảng 5 cây số chúng tôi quen dần và thấy rất mau chứ không đáng ngại nữa.

Thời gian này mẹ và các em tôi đang ở Mỹ Tho vì chưa bán được nhà, tôi vẫn nương náu nơi nhà anh chị tôi, đi làm cũng có đồng ra đồng vào nên mình cũng không ngại lắm, lương bao nhiêu tôi đưa chị tôi cả, chỉ giữ lại vài đồng tiêu vặt thôi, mà kỳ thực, lương cũng chẳng đáng bao nhiêu, nhờ gạo và nhu yếu phẩm cũng còn được lãnh đều và đủ nên tạm thời mình chưa là gánh nặng với anh chị, sống qua ngày được. Hễ có dịp là tôi viết thư về cho Thảo ngay, nhà nàng cũng đang bị bức bách lắm, sửa soạn phải đi kinh tế mới dưới miền Tây thôi vì chính quyền họ ép quá, thỉnh thoảng mẹ nàng phải về Cái Sắn ít ngày rồi lên lại để cho chính quyền biết là gia đình cũng sửa soạn đi. Thảo thì vẫn tiếp tục học vì là năm cuối còn em nàng thì đã nghỉ học rồi. Trên này, chỉ sau hơn một tháng, vì nước ở đây độc quá nên tôi bị một trận sốt rét ngã nước nặng lắm, da và mắt vàng đi, nằm im như một xác chết, phải nghỉ làm hết bốn năm ngày, may mà có anh chị tôi chăm sóc nên cũng đỡ. 

Vừa khỏe lại là tôi đi làm ngay, sợ mất phần cây mới nhận thì uổng lắm. Bấy giờ ngoài lô cao su, tình hình công việc cũng không có tí gì cải thiện cho đỡ khổ hơn, mùa mưa xuống khiến muỗi vắt nhiều hơn, ngán ngại nhất là con vắt, nó nhỏ xíu mình đâu có nhìn thấy, nó nhanh chóng bật lên chun vào người mình và hút máu lúc nào mình cũng chẳng hay, đến khi thấy ngứa, cởi quần ra thì thấy nó đeo lủng lẳng con nào con nấy to bằng ngón tay, tôi bị nó hút máu nhiều quá nên người xanh như tàu lá, dù rằng hôm nào đi làm cũng phải cài cột ống quần lại cho kỹ, nhưng không bị trên người thì bị dưới cổ chân, nhiều nhất là lô B và lô C, còn lô A thì không có vì chồi cây ở đây được phát hoang khá sạch.

Thế đấy, dinh dưỡng vào người được chẳng là bao mà muỗi vắt hút sạch biết bao nhiêu là máu, do vậy mà mặt tôi thóp lại, người ốm o gầy còm như một con ma đói. Ấy là chưa kể tới muỗi, nó bay quần vòng quanh mặt mình âm thanh vo ve như một bản hợp xướng, do vậy mà tôi bắt buộc phải tập hút thuốc để xua muỗi đi chứ cạo vòng thân cây mà cứ lo đập muỗi thì không kịp giờ và dễ bị vấp té. Trước 75, thời sinh viên, tôi nhớ mình chỉ hai lần hút thuốc vui với các bạn mà thôi, mỗi lần hút một điếu Capstan của Trung đưa cho, thế mà ngày nay phải hút thuốc rê liên tục, ban đầu thì ho dữ lắm, nhưng về sau thì quen dần, mà ai cũng vậy, kể cả phụ nữ, lúc nào cũng phải lăm lăm điếu thuốc rê để tránh muỗi, nếu không thì chẳng chịu nổi, mỗi buổi cạo thì phải vấn thuốc ít nhất là 5 lần, cho nên một lạng thuốc rê thì hút chưa đầy 1 tuần đã hết, đó là hút rất hà tiện và chỉ dám mua thuốc rê loại thường rẻ tiền màu nâu òm chứ đâu có đủ tiền để mua thuốc ngon loại màu vàng ở Định Quán. Giấy hút thuốc thì mua được mỗi tháng 2 xấp giấy Linh Xuân, hút vài ngày là hết, nên thông thường phải mua thêm ở ngoài hoặc vấn thuốc bằng giấy báo. Anh tôi và tôi phải lên Văn phòng Nông trường xin giấy pelure của Pháp sử dụng ngày xưa nay không còn dùng nữa, đem về cả xấp để cắt ra hút dần.

Mấy cô trong văn phòng thấy tôi thì cũng tỏ vẻ ngạc nhiên, hoặc thương hại thì đúng hơn, vì nghe nói có anh chàng sinh viên nào đó về đây xin làm công nhân cạo mủ cao su nên họ cũng ra xem mặt cho biết, bởi cả nông trường chỉ có mình tôi là sinh viên thôi chứ có ai đâu? Các cô Văn phòng cũng chỉ học đến lớp Chín lớp Mười rồi xin vào làm mấy năm nay, bên ngoài thì cũng chỉ có đôi ba người học lớp 11 thôi. Sau này mới có chị Ngọc từ Sài Gòn về theo diện kinh tế mới, cũng học lớp 12, được nhận vào làm thư ký ở Nông trường, còn anh Vọng chồng chị Ẩn thì học Luật trước tôi 2 năm rồi nghỉ, cũng ở Sài Gòn về, nhưng anh chị làm rẫy chứ không vào làm công nhân như tôi.

Cuối tuần thì tôi và anh tôi vào ca đoàn trên nhà thờ này. Nhà thờ sụp đổ lâu rồi, Cha sở Giuse Phạm Hữu Công dùng hai phòng học cũ ghép lại thành ngôi nhà nguyện, cuối tuần cha đến dâng Thánh lễ một lần vào chiều Thứ Bảy. Ca đoàn do anh rể tôi làm ca trưởng và cũng được khoảng hơn chục ca viên, bên nữ thì có chị Tư Cứu là y tá nông trường cùng các cô gái quê khác trong làng, bên nam thì có tôi, bác Hai và anh Vọng. Trước không có tôi thì anh tôi vừa đánh đàn vừa hát, sau có tôi thì tôi vừa đánh đàn vừa hát thay cho anh tôi, để anh tôi phất nhịp. Xứ nghèo tan hoang nên chỉ chơi cây đàn guitar thôi chứ đào đâu cho ra cây harmonium hay organ ở thời điểm đó, như vậy cũng là may rồi. Công việc quay như chiếc vòng xoay nên thời gian qua mau. Mỗi chiều tối tôi rảnh, tôi thường lấy bút viết ra sáng tác nhạc, viết tình ca cho Thảo thì nhiều, chứ Thánh ca thì chỉ có một bài duy nhất, đó là bài Của Lễ Ngát Hương ngày nay vẫn còn nhiều ca đoàn sử dụng, đó là bài Thánh ca đầu tiên do tôi sáng tác. Hồi đó nhớ Thảo lắm, bởi tuổi thanh niên như tôi biết có người yêu mình đang ở xa khuất thì nhớ lắm, thế nên tôi sáng tác khoảng gần chục bài gì đó ghi vào cuốn sổ tay, nhưng sau này tôi chỉ chọn được bài Chiều Tan Học là khá nhất trong số các bài đó, bài ấy tôi vẫn giữ cho đến hôm nay, in trong cuốn Tuyển tập tình ca Một Thời Để Nhớ của tôi.

Một ngày kia, bác Hai là thân sinh của chị Ngọc chị Ẩn và cũng hát trong ca đoàn chung với tôi, trước bác là sĩ quan cảnh sát ở Sài Gòn nên họ bắt buộc gia đình bác phải đi kinh tế mới lên đây, sáng hôm đó bác bị đột quỵ rồi qua đời, thời điểm đó gian nan lắm, không kiếm ra nổi một tấm hình để đặt trước quan tài, tôi thấy vậy bèn nói thôi để em vẽ lại cho, em cũng biết vẽ tí chút. Chị Ngọc liền đưa tôi cái hình thẻ căn cước của bác và trong chưa đầy hai tiếng đồng hồ, tôi vẽ xong bức chân dung của bác, đưa ra ai nấy đều khen là rất giống và bức chân dung ấy chị để đến cả chục năm sau tôi vẫn còn thấy. Từ đó trong xóm ai cũng biết là tôi biết vẽ nên họ thỉnh thoảng nhờ tôi vẽ giúp họ, tôi vẽ thêm hai bức nữa, trong đó có một bức người anh trai cô Tư Quắn đã qua đời cho họ đem về thờ, em gái cô Tư Quắn ấy tên là Quặn, thấy vậy thích lắm, cứ rảnh ra là đến thăm tôi, hở miệng ra là anh Năm anh Năm, nó nhờ tôi vẽ cho nó một tấm, phóng ra từ một tấm hình 6x9 bé xíu thành một tấm ảnh lớn rất đẹp, tới khi nó biết tôi có người yêu ở thành phố rồi thì nó ngại không đến thăm tôi nữa vì sợ hiểu lầm. Sau này cũng có nhiều người nhờ tôi vẽ nữa nhưng tôi từ chối vì lúc ấy có thể đi chụp hình lại phóng to được rồi, ngoại trừ những bức hình quá cũ và lem nhem không thể chụp được thì tôi có vẽ thêm cho một vài người và không bao giờ tôi lấy tiền công, mặc dù họ cứ nài nỉ tôi cũng không nhận, vì có đáng là gì đâu.

Rất may cho tôi là sau kỳ nghỉ thai sản, chị công nhân đó không biết lý do sức khỏe hay gì đó mà xin nghỉ nên cái phần cây ấy thuộc về tôi, khỏi phải đi vô-lăng, hàng ngày đã có sẵn phần cây ABC nên tôi có thể tự lực được vì đã quen lối đi của từng lô, những cô bạn phụ nữ ấy cũng chỉ phụ tôi chút ít thôi vì tôi cũng đã làm nhanh gần bằng họ rồi. Ban ngày thì hôi hám lắm, vì tay luôn phải bóc mủ chén bốc mùi như mùi phân, cho dù sau mỗi lần cạo, chúng tôi đều phải nhúng tay vô mủ tươi rồi chà xát cho khô, sau đó lột ra cho đỡ mùi hôi thối, nhưng đêm về thì tắm rửa sạch sẽ nên cũng thơm tho như bình thường. Một tuần mấy tối, anh rể tôi phải ra tập văn nghệ cho đội văn nghệ của nông trường, rảnh nên tôi cũng đi theo xem coi chơi thôi chứ lúc đó đang buồn nên tôi không màng ca hát gì.

Một hôm nọ, lúc tôi đang đứng ngoài hiên dòm vô phòng xem người ta tập hát thì có một anh chàng bộ đội trạc tuổi tôi bước đến trước mặt, thấy tôi tóc dài chưa kịp cắt thì hất mặt lên hỏi: Đm, nghe nói mày là dân thành phố về phải không? Tôi trả lời: Ăn nói đàng hoàng nghen mày, mắc mớ gì mà mày chửi Đm tao? Nó sấn tới chụp ngực áo tôi nói Đm, tao nói đó, mày làm đ. gì tao? Nó vừa dứt lời thì tôi đã tống một quả đấm vào mặt làm nó văng ra đằng sau. Ở trong phòng tập, anh tôi nghe bên ngoài chộn rộn thì nhảy ra, thấy nó đang lao về phía tôi thì chận lại, quật nó xuống đất. Đúng lúc đó thì mọi người can ra, nó chửi thề tá lả và lăm le sẽ giết hai anh em tôi. Mọi người chung quanh nhìn thấy rõ sự việc thì bênh tôi, bảo rằng người ta đứng im có làm gì đâu mà thằng Công nó đến gây sự? Thì ra tên nó là Công, con bà Tư Sanh, mới đi bộ đội được mấy tháng nay, sau này tôi mới biết nó có một người anh tên là Thành đang cạo mủ ở Xuân Sơn, anh Thành này cũng đã đi lính chế độ cũ và đã lập gia đình.

Tối hôm đó, anh tôi nghỉ tập và cùng tôi về nhà, biết rằng tụi bộ đội mới lớn này rất dễ làm càn vì tình hình bây giờ đang tranh tối tranh sáng gay go lắm. Quả nhiên vừa về nhà được một lúc thì chúng tôi nghe tiếng gõ cửa bảo rằng hai anh em tôi ra ngoài ngay, có người cần nói chuyện. Anh tôi nghe tiếng thì biết đó là anh chàng Lý, cũng là bộ đội, con ông Tám Tàng, lớn tuổi hơn tôi. Anh tôi mở cửa nhìn ra thấy trời tối om om và nhiều bóng người đứng lố nhố nên anh tôi nói lớn: Muốn gì thì vào trong nhà nói chuyện chứ chúng tôi không ra ngoài. Thấy đông người xem nên chúng chưa dám làm liều, Lý và Công bước vào nhà vừa nói vừa hăm he chửi thề um sùm, rút cây colt 45 ra đập trên bàn bảo rằng chúng tôi tới số rồi nên mới dám đụng vào anh em nó. Anh tôi bảo có nhiều người chứng kiến là vì Công ăn hiếp tôi trước chứ anh tôi chỉ quật nó xuống chứ không đánh đấm gì thêm. Thấy mọi người bu quanh nhà xem nên chúng hăm he một lúc rồi quay về.

Qua hôm sau biết rằng chúng sẽ thế nào cũng trả thù nhưng vẫn phải đi làm như thường lệ. Tới khi chiều đi làm về, vừa bước xuống xe thì Công an xã mời chúng tôi đến làm việc, mục đích là hòa giải, chúng tôi đến phòng công an xã, ở đó có sẵn anh Thành là anh của Công nghe tin em mình bị đánh thì tức tốc chạy ra, chúng tôi vào và trình bày sự việc. Lúc ấy chị Tám Của là Trưởng Công an Xã nói chị đã nghe mọi người kể lại sự việc hồi hôm cũng không có gì quá đáng, bởi chị biết anh em tôi trước nay sống rất đàng hoàng chứ không phải loại ngang tàng bá phát, anh Thành của nó nghe kể thì cũng bớt nóng, bảo lỗi tại em mình bắt nạt người ta trước nên mọi việc kể như giải hòa cho xong rồi tất cả ra về. Tuy vậy, Công và nhóm bạn của nó vẫn không muốn cho tôi yên, nó hậm hực ra về cùng đám bạn bộ đội ba bốn đứa đang chờ ở ngoài, chúng tôi cũng ra về, thực sự thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra nữa đây, vì tụi bộ đội mới lớn rất ngang tàng và coi ai cũng chẳng ra gì.

Bẵng đi nửa năm sau, lúc tôi mới lập gia đình, vào một ngày Chúa nhật, xe chở công nhân đi Bà Rịa để cho công nhân đi chợ mua đồ, tôi và vợ tôi cũng đi, đến khi về, vừa leo lên xe thì Công và đám bạn nó không biết ở đâu ra, tiến lại đứng chặn ở phía dưới, nó hét lớn kêu tôi xuống để “giải quyết”. Thật tình lúc đó tôi cũng rất sợ, kể coi như xong rồi, bởi luật pháp bây giờ đâu có nữa, tôi nói: Chuyện Công an đã giải quyết xong lâu rồi, bây giờ mấy anh còn muốn gì nữa? Tụi nó vừa chửi thề vừa hối tôi bắt buộc phải xuống mới được. Đúng lúc đó thì anh Thành của nó cũng đi chợ, thấy vậy tiến tới chặn ngang tụi nó bảo giải tán ngay, người ta đàng hoàng chứ không có du côn như tụi bay, đứa nào động đến ảnh thì chết với tao! Đám thằng Công nghe vậy thì cũng ngán, rút lui hết. Anh Thành ấy nhìn tôi cười bảo: Anh yên tâm đi, tôi có nghe người ta nói về anh, chẳng có đứa nào dám ăn hiếp anh nữa đâu!

Thì ra sau này tôi mới biết sau kỳ hòa giải ấy, anh Thành của nó vào Xuân Sơn có nghe Thiên là con của chị Hoàng ở gần nhà anh chị tôi kể chuyện, nói là tôi rất hiền lành và đàng hoàng nên tôi không bao giờ làm chuyện càn quấy như vậy, do đó mà hôm ấy anh đứng về phía tôi để đuổi đám bộ đội kia đi. Từ đó thì không bao giờ có chuyện gì xảy ra giữa tôi và Công nữa. Mãi đến gần ba năm sau, một chiều nọ, Công và một người bạn khác của nó chạy Honda đến nhà tôi, nó vui vẻ bắt tay tôi và bảo anh em mình từ nay bỏ qua hết đi nghen, mai tao đi qua Kampuchia uýnh bọn Pôn Pốt rồi nên tao tới hòa giải với mày. Tôi rất vui và mời nó vào nhà chơi nhưng nó chỉ cười vẫy tay chào và lên xe đi, đâu khoảng vài tháng sau thì tôi nghe tin nó hy sinh tại Kampuchia và mất xác tại đó. Về sau, em nó là tài xế lái máy kéo ở Nông trường nhận tôi làm thầy, vì tôi đã tập văn nghệ cho tụi nó lúc nhỏ. Ngày nay em nó cũng đã già và rất quý mến tôi, đi đâu cũng khoe nó là học trò của tôi.

Chuyện ẩu đả là thế, nhưng việc làm thì vẫn bình thường, không khá hơn chút nào, tôi vẫn ngày ngày bốc mủ cạo mủ như thường lệ, bởi hoàn cảnh bây giờ muốn phấn đấu hơn cũng chẳng được, thời thế đã đưa đẩy số phận mỗi con người thì mình cũng phải chấp nhận như thế thôi, bạn bè tôi nếu ai trụ được thành phố giờ đó thì mới tiếp tục được con đường học vấn, như nhà văn Nguyễn Nhật Ánh vậy, anh lớn hơn tôi một tuổi và trong thời kỳ cam go ấy nghe đâu anh cũng phải đạp xích lô kiếm sống, nhà thơ Đỗ Trung Quân thì phải đi Thanh niên xung phong và phải qua chiến trường K, tôi thì vướng bận gia đình nên phải bỏ học đi làm công nhân, mỗi người một số phận, muốn thay đổi số phận cũng không dễ dàng gì.

Được vài hôm thì chị cả tôi phải về Mỹ Tho vì đã tìm ra người mua nhà rồi. Vậy là sau khi bán nhà Mỹ Tho, gia đình tôi mua lại một miếng đất độ 3 sào của dì tôi trên rẫy Suối Nghệ, giáp với La Sơn. Chị tôi mua một xe lá lợp nhà và thu dọn đồ đạc thuê xe chở lên Bình Ba, đưa mẹ tôi và các em tôi lên luôn, còn chị kế tôi thì vẫn còn làm chân thư ký ở trường nên vẫn ở lại Mỹ Tho, ở nhờ tạm trong nhà một người hàng xóm. Chiếc xe tải chạy xuyên đêm và sáng sớm hôm sau thì tới nơi, sẵn đó chạy thẳng xuống rẫy mới mua ở Suối Nghệ, hôm đó tôi nghỉ làm để phụ vận chuyển vật liệu các thứ vào trong rẫy, sau đó thì anh rể tôi tìm mua thêm cây gỗ, tre và lá buông, mỗi chiều sau giờ cạo mủ, chúng tôi dựng nhà và sau hơn một tuần thì cũng xong, chúng tôi đã có một ngôi nhà riêng cho gia đình ở vùng đất mới, mảnh đất tuy nhỏ không đáng gì, trồng chuối và một khoảnh ruộng nhỏ, nhưng dù sao thì cũng là nhà mình, chứ nhà anh chị cả tôi chật quá, lại phải ở chung với 2 công nhân khác nên đâu còn đủ chỗ.

Vì ở rẫy xa, lại phải đi bộ, nên tôi phải thức dậy sớm hơn lúc ở nhà anh chị tôi mới kịp. Cứ 3 giờ rưỡi sáng là phải thức dậy nấu cơm các thứ bới đi, ngoài cặp xô thùng và giỏ cạo, dao cạo, dao phát cỏ, tôi còn phải đem thêm cái rựa nữa để chiều về kiếm củi, rồi mặc dù trời tối đen, lắm lúc đạp phải rắn rít, tôi vẫn đi bộ xuyên qua rẫy vì mình mang giày đâu sợ bị cắn, băng qua đường lộ rồi theo lối mòn vào phần cây ở La Sơn, quãng đường độ gần 3 cây số, nhưng đi riết cũng quen, thường thì tới nơi trễ hơn các công nhân khác một chút, nhưng hồi này tôi cũng đã cạo quen rồi nên không sao, còn có các cô ấy vẫn thường xuyên giúp cạo phụ cho tôi nên công việc vẫn ổn định, chiều về thì tôi thường phải kiếm củi khô chất đầy hai cái thùng xô gánh về, hôm nào may thì gặp nguyên cây củi khô dài bốn năm mét thì cũng vác về luôn, mệt muốn đứt hơi nhưng phải gắng vì ở rẫy toàn là chuối chứ đâu có củi khô mà dùng? cứ đi từng đoạn một, mệt thì buông cây củi xuống rồi ngồi nghỉ rồi lại đi tiếp cho hết quãng đường 3 cây số ấy, tuổi trẻ cần dinh dưỡng mà hoàn cảnh tôi lúc đó ốm đói, lại làm việc vất vả nên rõ ràng khi về già đâu còn có sức khỏe được như người khác nữa? (TOP)

Lập gia đình

Sau giờ làm việc vất vả thì khi chiều về, ngồi thảnh thơi trong ngôi nhà nhỏ ở rẫy, tôi nhớ Thảo ghê gớm, bởi sau những gian truân vất vả trong công việc, cố quên nó đi thì chỉ còn mặt tình cảm thôi, mà tình cảm trong mình thì chỉ biết nghĩ đến người mình yêu thương mà thôi, nàng viết thư lên bảo rằng cũng rất nhớ tôi, và gia đình nàng lại bị thúc ép triền miên phải đi kinh tế mới, chắc là phải bán nhà để về Cái Sắn. Tôi bàn với mẹ và chị, bảo rằng thôi thì bây giờ em lập gia đình cho rồi, cho có người đỡ đần kế bên, chứ mai đây gia đình Thảo phải về Cái Sắn thì xa xôi quá. Mẹ và chị tôi đồng ý và tôi viết thư về báo cho Thảo và gia đình nàng biết, gia đình nàng cũng đồng ý cho chúng tôi cưới nhau, sau đó tôi xin phép nghỉ mấy ngày để cùng mẹ tôi về Mỹ Tho gặp gỡ gia đình hai bên và làm phép hôn phối. Tôi nói với bên nhà vợ là nhà con bây giờ ở xa, nên chỉ làm phép cưới rồi xin phép đưa Thảo lên thôi chứ không có rước dâu chi hết, vì thời ấy giao thông đâu còn xe đò nữa, toàn là xe chạy bằng than, mỗi chuyến xe nhồi nhét chật cứng, leo lên cả mui xe đầy những người thì lấy đâu ra xe mà rước dâu? Mẹ nàng cũng biết hoàn cảnh như thế nên không đòi hỏi gì, dự định chỉ làm hai ba mâm cơm trong gia đình bà con thôi, chứ cha nàng thì vẫn còn bị ngồi tù nên đâu vui vẻ gì?

Mẹ tôi và tôi về đến nơi thì cũng vừa hay tin Thảo đậu Tú tài rồi, chúng tôi mừng lắm vì như vậy không bị mang tiếng là lo yêu mà xao lãng việc học. Tuy gia đình nàng không đòi hỏi gì nhưng gia đình tôi cũng phải chuẩn bị chứ đâu có đi mình không được. Chị kế tôi bèn lấy xâu chuỗi hột bẹt rất đẹp chị cả tôi cho ngày xưa rồi đem đi bán, sắm được một đôi bông tai và còn dư một số tiền để mua lễ vật để làm lễ hỏi và lễ cưới, qua hôm sau thì chúng tôi lên trình cha để xin cha làm phép hôn phối, cũng chỉ vừa kịp rao 1 tuần thôi chứ không có thời gian, vì tôi ở ca đoàn và Thảo cũng đạo đức có tiếng nên cha cũng bỏ qua việc khảo giáo lý hôn nhân vì cha nghĩ chúng tôi rành rẽ quá rồi. Trước ngày cưới 3 hôm, gia đình tôi qua làm lễ hỏi tại nhà nàng, vì không có ai nên tôi phải nhờ cha linh hướng của tôi là cha Nguyễn Thanh Tuân làm chủ hôn, cha nói bây giờ cha nghèo quá, không có tiền cho con nên cha cho một chai rượu lễ Rôma để đi đám hỏi. Sáng hôm đó ngoài mẹ tôi còn có anh tôi và chị kế tôi đi nữa, đoàn do cha dẫn đầu mang theo chai rượu lễ, đôi bông tai, mấy đòn chả và một mâm xôi mà thôi. Đến nơi, bên nhà gái thấy có cha làm chủ hôn thì vui lắm, bà con bên nàng có bác Chúc, cô Biên từ Biên Hòa về và chú Trường ở Mỹ Tho cũng thay mặt cha nàng để nhận lễ hỏi, cha linh hướng của tôi bảo vì hoàn cảnh giải phóng khó khăn như thế nên xin hai bên vui lòng miễn chấp, cho chúng nó thành hôn trước mặt Chúa là vui rồi. Bên nhà nàng mời ở lại ăn bữa cơm gia đình đơn giản thôi, rồi ba hôm sau làm lễ cưới. Hôm đó cha Long tuy đi học tập nhưng thỉnh thoảng cũng được về nên ngài làm phép hôn phối cho chúng tôi luôn, ca đoàn Nữ Vương của tôi cũng hát lễ cưới cho tôi hôm đó, nhưng vì hoàn cảnh đâu có tổ chức tiệc tùng gì nên họ chúc mừng chúng tôi rồi ra về thôi. Trưa hôm đó bên tôi cũng phải biện một mâm lễ cũng đơn giản để qua bên nhà gái chứ không có đưa dâu gì cả, chỉ 3 mâm cơm những người trong gia đình thôi. Tối đến chúng tôi có mời một số bạn bè thân thiết như Phước, Trung, Thành và những người bạn của nàng, ăn bánh uống nước trà rồi ngồi nói chuyện ca hát, ai nấy thấy tình hình xã hội và hoàn cảnh của tôi như thế thì chẳng phê phán trách móc gì, chỉ chúc mừng cho tôi thôi, với lại hiện tại tôi cũng đã có nhà, có công việc, tuy chẳng giàu có khấm khá gì nhưng cũng có thể sống được trong thời buổi khó khăn này.

Hai hôm sau thì mẹ tôi qua nhà nàng, xin phép đưa Thảo về, mẹ nàng khóc dữ lắm vì biết quãng đời sắp tới sẽ rất khó khăn, nhưng vì chúng tôi thương nhau thật lòng nên chín bỏ làm mười, cho chúng tôi gần nhau chứ mai mốt đi về Cái Sắn thì khó khăn hơn. Thảo thì vẫn tỉnh bơ, không lo lắng gì cả, có lẽ lâu nay nàng phụ mẹ nên cực nhọc quen rồi, bây giờ có cực nữa cũng chẳng sao. Chúng tôi ra bến xe sắp hàng mua vé lên đến Sài Gòn rồi ra bến xe miền Đông lại sắp hàng mua vé về Bà Rịa, nhưng xe Bà Rịa không có nên phải mua vé về Long Khánh, xe than nhét đầy người nên tôi phải leo lên mui xe mà ngồi cùng các người khác. Đến Long Khánh thì trời đã tối nên không có xe về trên tôi. Mẹ tôi nhớ có một người bà con ở Long Khánh nên đi hỏi thăm nhà và tìm tới, rất may là tìm ra được và tối đó chúng tôi tá túc tại nhà người bà con ấy. Mới 4 giờ sáng hôm sau tôi phải chạy ra bến xe sắp hàng trước mua vé mới kịp, còn mẹ tôi và vợ tôi ra sau, đến nơi thì đã đầy người đứng xếp hàng, tôi cố gắng đứng chờ đợi mãi đến 10 giờ trưa mới có vé, chúng tôi lên xe và tôi lại phải leo lên mui ngồi vì không đủ chỗ, nhường ghế lại cho mẹ tôi và vợ tôi, mãi đến 3 giờ chiều xe mới tới nơi, chúng tôi xách đồ đi bộ vào trong rẫy. Thảo cũng vui vẻ chứ chẳng thấy mệt nhọc gì, trong gian nhà nhỏ tôi có làm một cái phòng riêng che bằng lá buông chung quanh trước rồi nên nàng vào phòng cất đồ ở đó, tài sản duy nhất của tôi lúc ấy chỉ là một chiếc giường gỗ nhỏ bề ngang chín tấc, ngày xưa mua nhà dì tôi cho lại, còn ở nhà thì anh tôi làm một tấm sịa lớn bằng tre cho mọi người ngủ trên đó.

Thế là tôi đã trở thành một người có vợ, qua sáng hôm sau thì đi làm lại ngay, lại thức sớm và đi bộ ra lô, thấy trách nhiệm mình nhiều hơn và mừng là Thảo vẫn vô tư ở nhà vui chơi thăm thú vườn tược cùng em út tôi, nấu nướng mọi thứ chờ chiều tôi đi làm về. Công việc cứ thế mà qua ngày, thỉnh thoảng chuối nhiều thì chặt từng buồng đem bán, còn miếng ruộng nhỏ trước nhà thì trước đó mẹ tôi và tôi đã cày bừa và cấy lúa luôn rồi. Mẹ và em gái tôi lúc ấy vẫn ở nhà chị tôi, chỉ thỉnh thoảng mẹ tôi lên rẫy thôi, nên ở nhà chỉ có vợ chồng tôi và em trai út của tôi, lúc đó nó cũng mới 12 tuổi. Mỗi sáng Chúa nhật thì chúng tôi mặc đồ đàng hoàng rồi đi bộ xuyên qua những con đường tắt ra Nhà thờ Quảng Nghệ xem lễ, xong đi lên chợ Hữu Phước đi chợ mua đồ về ăn cả tuần, nói của đáng tội, mang tiếng đi chợ chứ cũng chỉ mua được mấy con cá khô cùng ít mỡ rán mang về thôi, rau cỏ thì ở rẫy cũng có rồi.

Đi làm ngoài lô cao su, mấy chị em trong tổ chọc tôi theo kiểu hờn mát là anh Năm ảnh chỉ lấy vợ thành phố thôi, chứ tụi mình thì ảnh đâu có thèm, tôi biết họ chỉ trêu tôi cho vui thôi, chứ lòng họ thì vẫn quý mến, vẫn giúp đỡ tôi như dạo nào, ai cũng kêu mai mốt anh dẫn chị Năm ra lô cao su chơi cho tụi em coi mặt với. Tôi chỉ biết cười giả lả cho vui rồi việc mình mình làm, chiều về nếu có rau rừng thì kiếm thêm chút ít rồi gánh củi về thôi. Thời gian ấy bắt đầu kham khổ nên công nhân không được lãnh đủ phần gạo 19 kg nữa mà phải ăn độn, hầu hết là củ mì, có khi thêm bắp hoặc bột mì Liên xô, do vậy mà gạo cơm quý lắm. Có một lần vợ tôi và em tôi nấu cháo, lỡ tay để muối nhiều quá nên nồi cháo mặn đắng không ăn được, hai chị em hoảng quá sợ mẹ tôi rầy nên ra ngoài rẫy đào một cái hố rồi đổ cháo vào chôn đi, chiều về nghe vợ tôi kể lại tôi cười quá chừng, thôi thì lỡ rồi, uổng hết một lon gạo cũng được.

Ở trên rẫy được hơn một tháng thì Nông trường có nhập tranh tre về rất nhiều để cấp cho dân kinh tế mới, anh rể tôi bàn với tôi là nhân cơ hội này Lân nên kiếm một cái nền nhà nào đó rồi nhận tranh tre về cất nhà. Anh chị tôi lúc ấy đã có nguyên căn nhà xây cũ lúc trước vì hai bạn công nhân Đượm và Đà ở chung ngày xưa nay đã kiếm ra nhà khác ở rồi nên anh tôi không cần, chỉ nói tôi lo kiếm đi. Tôi xuống phía làng Bình Đức cũng thuộc Bình Ba và tìm ra được một cái nền nhà bỏ hoang của ai đó bỏ đi lâu rồi, nhà sập hết cả chỉ còn trơ cái nền um tùm những cỏ cao quá đầu người, và thế là tôi dọn dẹp mất mấy ngày mới xong một chỗ để làm nền kế bên nền nhà cũ, cũng là xí phần cho mình để sau này khỏi bị ai giành, khu đất ấy ở ngay mặt tiền đường, nhà của Pháp xây hồi xưa nhưng qua chiến tranh tan nát cả nên mình xí được thì cứ ở. Tôi liền lên ghi tên đăng ký và nhận về phần tranh tre của nhà nước cấp, bởi tôi cũng là dân kinh tế mới, nhưng không ở tập trung như những người khác từ Biên Hòa lên thôi. Công nhận hồi ấy cũng dễ, nghe nói vậy họ cũng phát cho ngay mà không đòi hỏi gì, lại còn cho xe máy kéo chở về khu đất của tôi mới dọn nữa.

Và thế là mỗi ngày, sau khi cạo mủ xong, anh rể tôi dẫn tôi đi vào khu rừng sát lô cao su để chặt cây làm nhà, tôi vào rừng, nhìn thấy cây nào thẳng cũng ham, nhưng anh tôi chỉ cho biết loại cây nào dễ bị mối mọt loại cây nào không, chọn được mấy cây bằng lăng làm cột sẽ không bị mối ăn và một số cây khác làm kèo, sau hai ba lần đi rừng thì đủ theo tính toán, cứ mỗi chiều là chuyển về theo xe chở công nhân rồi cất vào lô đất của tôi. Sau khi đầy đủ vật liệu, mình chỉ tốn tiền mua đinh thôi, chứ cột các thứ đều có kẽm kiềng trong lô cao su tha hồ mà lượm đem về dùng, vào ngày Chúa nhật được nghỉ, anh tôi và tôi kiếm đục kiếm khoan và chúng tôi dựng xong ngôi nhà, hôm nào làm xong thì trời cũng đã tối, tôi lại đi bộ lên rẫy ngủ vì ở đó chỉ có vợ và em tôi thôi, mệt muốn đứt hơi nhưng mừng là vì mình sắp có ngôi nhà mới của riêng mình ở làng, đi làm cũng tiện hơn vì sáng sớm chỉ việc đi ra theo xe nông trường chở vào lô, chứ không còn phải lội bộ như lúc ở rẫy nữa. Thêm ba cái Chúa nhật nữa thì nhà tôi đã lợp xong, chung quanh đập tre ra làm sịa để che, nhà chỉ 3 x 4 m và có làm thêm cái chái bếp, cửa nẻo thì làm khung tre ép lá buông, làm xong nhà nhưng chẳng tốn kém là bao.

Vài tuần sau, khi nhà cửa đã xong, tôi xin phép mẹ tôi cho tôi về ở riêng để tiện việc đi làm, mẹ tôi đồng ý và nói rằng nhà nghèo không có gì, nên chỉ cho con cái giường gỗ là thứ đáng giá nhất để con đem về nằm ngủ, còn công việc trên rẫy chẳng có gì, thỉnh thoảng lên chặt chuối bán và đến mùa thì đi gặt ít lúa thôi, mẹ và em tôi ở dưới nhà anh chị tôi cũng được, lâu lâu lên rẫy để dọn dẹp ít việc thôi. Thế là chỉ hơn hai tháng sau khi đám cưới, tôi đã có một mái ấm cho mình, tuy đơn sơ nhưng bằng chính công sức mình tạo ra, chúng tôi dọn về ở và nấu bữa cơm đầu tiên, vợ chồng nhìn nhau mừng chảy nước mắt, vợ tôi thì tự tin lắm nên hoàn cảnh khó khăn gì nàng cũng không đáng ngại. Ngôi nhà tranh nhỏ chung quanh um tùm cây lá cỏ rác nhưng chúng tôi không sợ, vì đã có hai người với nhau, tuy cơ cực nhưng hạnh phúc lắm. Tuy chỉ là ngôi nhà nhỏ, nhưng chúng tôi cũng có một chiếc bàn tự đóng hồi còn học sinh và tôi cũng đóng thêm hai cái ghế băng để ngồi, trên vách tôi có vẽ một bức hình vợ chồng tôi bằng chì rất đẹp, bởi lúc làm đám cưới nghèo quá, đâu có chụp hình vì thời ấy không có phim, rất là khan hiếm, nên hai vợ chồng sau khi cưới có ra ngoài tiệm chụp hình chụp một pô hình duy nhất khổ 6x9 cm mà thôi, tôi vẽ phóng lớn lên treo trên vách thấy cũng ấm cúng như người ta. Ban ngày tôi đi làm, chỉ ra ngoài sân điểm là có xe tới đón chở ra lô, chiều về xe ghé ngang nhà thì bước xuống, hầu như chiều nào tôi cũng kiếm thêm củi chất đầy sau chái bếp. Ở nhà, vợ tôi hàng ngày ra nền nhà cũ gom được cục gạch nào còn sót thì đem về lát gạch trong nhà, rồi cũng thành một cái nền gạch rất dễ thương, có điều đêm về thì quạnh hiu lắm, chung quanh cũng còn mấy cái nền nhà nữa, nhưng bỏ hoang um tùm cây cỏ vì không ai thèm đến giành, đâu ai có thể ngờ rằng, khu vực này về sau sẽ là mặt tiền quốc lộ? (TOP)

Làm lao động phổ thông

Từ ngày chúng tôi ở nhà riêng, mỗi chiều Thứ Bảy là hai vợ chồng mặc đồ đàng hoàng đi lễ, vợ tôi có rất nhiều áo dài thời con gái nên mặc ra đường ai cũng khen là tôi có vợ đẹp, lại hiền ngoan dễ thương nên dân trong làng cũng quý mến, tôi lại tham gia ca đoàn cùng anh tôi như lúc mới lên. Lâu lâu mẹ tôi cũng xuống thăm và ăn cơm với tụi tôi. Thắm thoát rồi Tết cũng sắp đến, tôi có quen bác Tám giữ rẫy ngoài lô cao su, bác hay giúp tôi những việc vặt và quý tôi lắm. Tết năm đó, sau khi lên nhà chúc Tết mẹ và anh chị tôi, chúng tôi về nhà và có mời bác Tám ấy đến chơi ăn cơm, đó là lần đầu tiên chúng tôi mới dám mua một con vịt về ăn tết, chúng tôi làm mấy món và mua 1 xị rượu về cho bác và tôi uống. Thế là xong một cái tết, cái tết đầu tiên của vợ chồng tôi. Thảo buồn lắm vì không về chúc tết gia đình được, nhưng hoàn cảnh khó khăn như thế này thì đành chịu thôi.

Nghỉ tết xong, Thảo bàn với tôi là bây giờ vợ chồng mình phải chấp nhận chia xa, anh làm ở đây, còn em về lại Mỹ Tho đi buôn ba thứ lặt vặt về bỏ sỉ cho các sạp ngoài chợ để kiếm thêm đồng ra đồng vào, chứ em ở đây cũng chẳng làm được gì, lúc nào tiện thì em lên thăm anh. Mới lấy nhau chưa được nửa năm mà phải xa nhau, ai mà chả buồn, nhưng ý vợ tôi đúng quá, do vậy mà vợ tôi sắp xếp mọi thứ rồi quay về Mỹ Tho để đi buôn, nghe đâu lúc vợ tôi vừa về, mẹ nàng khóc dữ lắm, bảo sao con mới lấy chồng đây mà giờ đen quá vậy, kỳ thực, có đen gì đâu? Vợ tôi bảo con có làm gì phải dang nắng đâu mà đen? Chỉ vì ở vùng đất đỏ nên bụi bặm khiến mình đen nhẻm đi mà thôi. Tôi ở lại một mình và cũng với công việc cũ, chỉ khác là sáng dậy sớm tự mình nấu nướng và chiều về tự mình lo tất cả cơm nước thôi. Cũng chẳng sao, vì tôi cực quen rồi, chỉ thương nàng lấy chồng nghèo mà phải cực khổ như vậy thôi.

Chỉ một tháng sau là vợ tôi lên lại, và mang cho tôi một món quà, đó là chiếc xe đạp cũ mà nàng mua lại của ai đó không biết. Ôi thôi, lúc ấy mừng vô số kể, vì có chiếc xe đạp sẽ đi đây đi đó rất tiện. Chiếc xe tuy người ta xài rồi nhưng tôi thấy còn rất mới, cho nên tôi cưng quý nó lắm, hai vợ chồng đi đâu chở nhau cũng rất tiện, thời ấy anh chị tôi cũng chỉ có một chiếc xe đạp sườn ngang mà thôi, cho nên tôi có được chiếc xe đạp thì cứ như là có được một gia tài nhỏ. Nàng bảo rằng về Mỹ Tho, nàng chịu khó đi lúc thì Bến Tre, lúc thì Sài Gòn, thấy mấy cái sạp tạp hóa ngoài chợ ai cần thứ gì thì nàng mua thứ đó, chỉ lấy lời chút ít cho người ta bán lại, bởi nàng có máu buôn bán từ nhỏ rồi nên quen mấy việc này lắm, mua bán lời được bao nhiêu thì mẹ vợ tôi bảo cứ giữ lấy làm vốn, còn ăn uống các thứ thì mẹ vợ tôi lo cả, thậm chí còn cho thêm, cho nên chỉ sau một thời gian thì vợ tôi cũng đã có chút vốn liếng. Ở chơi thăm tôi đôi ba ngày rồi vợ tôi lại quay về Mỹ Tho, cứ như thế có khi đôi ba tháng mới lên một lần, cứ quay vòng suốt năm. Tôi thương nàng lắm, vì cái thân cò của nàng ốm yếu, đâu được như người ta, thế mà vẫn lang bạt nơi nào cũng đi, miễn sao mua bán kiếm ra đồng lời cho gia đình là được, mua bán bất cứ thứ gì, thậm chí buôn thuốc lá lậu nàng cũng vẫn không từ, may là không bị bắt lần nào. Ở trên này từ ngày có xe đạp, tôi thường đi làm bằng xe đạp cho dễ xoay trở, nhưng được một thời gian thấy cột móc phía sau xe nào thùng nào rựa trầy xe hết nên tôi không đi xe đạp nữa mà cất ở nhà, lại phải sắm thêm ổ khóa để khóa xe đạp trong nhà, đi làm mà lòng cứ nôn nao sợ kẻ gian vào lấy mất.

Gần cuối năm 1977 thì vợ tôi có bầu, như thế cũng là trễ vì ở trên này, lấy nhau xong là qua năm sau sinh con ngay. Tôi đi làm cứ bị các cô chọc sao lấy vợ lâu thế mà chưa có bầu, bộ bị nâng hả? Tôi bảo hai vợ chồng tui đâu có ở với nhau mà có, đùa với họ thôi chứ họ biết là vợ tôi lên về hoài và một vài người như cô Mận, cô Lợi Phò và Bé Tư thấy mặt vợ tôi rồi nên họ khen dữ lắm, họ bảo vợ tôi trí thức như cô giáo, đeo mắt kiếng mang áo dài vàng trông rất xinh, nghe vậy trong bụng tôi cũng hớn hở lắm chứ, bà Chín vợ ông Chín Sơn bí thư thì nói mát: Người ta xinh đẹp trắng trẻo học thức chứ đâu phải như dân quê nhà mình. Tôi cũng chỉ ậm ừ cho qua chuyện chứ cái thân mình đây cạo mủ còn chưa bằng ai chứ nào có ra gì.

Trong những ngày cạo mủ khổ cực ấy, tôi gặp không biết bao nhiêu là chuyện, có lần gần lô cao su tôi cạo, người ta bắt gặp một xác phụ nữ trần truồng bị trương sình lên vì chết đã mấy ngày rồi, sau đó công an đến điều tra rồi mang đi, sau này nghe nói tìm ra được thủ phạm đã hiếp cô ấy rồi giết đi, mọi người ai nấy xôn xao bàn tán và mỗi lần đi cạo từ cây này đến cây khác, ai nấy cũng phải để ý chung quanh, hít hít ngửi ngửi xem có mùi xác chết không, tâm trạng phập phồng bất ổn lắm, lại thêm có lần bắt gặp ở rìa lô cao su tiếng trẻ em khóc, người ta chạy vào thấy một trẻ sơ sinh mà bà mẹ nào đó vứt đi, đến nơi họ thấy đứa bé bị kiến cắn bu đầy mình, phồng rộp cả người lên, mang về bệnh xá thì đứa bé không chịu nổi, qua đời luôn. Lại nghe phong phanh là hay có tàn quân về vì thình thoảng nghe tiếng súng bắn. Tàn quân đây là những người lính VNCH sau 75 không ra trình diện, quyết chống cộng sản đến cùng, hình như họ ẩn nấp đâu đó trong rừng, thỉnh thoảng ra ngoài và đụng chạm với du kích đâu đó miệt Bình Giã Xuân Sơn.

Một lần nọ đâu khoảng cuối năm 1977, hôm đó có vợ tôi lên thăm, đến đêm thì nghe tiếng súng nổ dữ dội phía Ủy ban xã, rồi vang đều lên khắp khu trung tâm, thì ra là tàn quân về, họ ngang dọc mà chẳng thấy ai chống trả vì nghe tiếng súng liên thanh vang khắp vùng, hỏa lực họ mạnh lắm, hầu như lực lượng du kích xã đều bỏ trốn cả để họ làm chủ tình hình. Vì quá bất ngờ nên số cán bộ như ông Chín Sơn bí thư, anh Tư Trọng Phó chủ tịch và những người khác đều trở tay không kịp, chẳng ai lộ mặt ra đánh lại, để họ vô từng nhà lùng sục tìm kiếm cán bộ. Tôi và vợ tôi cũng sợ, sợ vì ngán tên bay đạn lạc chứ mình là dân thường thì đâu có sao. Xôn xao khoảng một tiếng đồng hồ sau đó họ bắn súng vang trời đất rồi rút đi. Sáng ra cả làng chạy ra ngoài xem sự thể thế nào thì thấy anh Thiên, em của anh Tư Trọng Phó chủ tịch, bị nhóm tàn quân ấy bắt ra ngoài xã và bắn chết tại đó, bởi họ biết anh Thiên ấy thuộc gia đình cách mạng, lại là cán bộ Thư ký Công đoàn nên họ giết để dằn mặt, mọi người mang xác về và tôi có đến thăm vì anh Thiên ấy cũng quen biết tôi, nhà cũng đạo công giáo nhưng anh ấy bỏ đạo theo cách mạng. Đến gần trưa thì Bà Rịa mới đưa mấy xe chở bộ đội lên truy kích, nhưng chẳng được gì vì nhóm tàn quân ấy đã đi mất từ lúc nào, nghe đâu mãi đến ba bốn năm sau họ mới điều tra ra được và bắt được mấy người trong nhóm đó đem ra xét xử.

Vài ngày sau thì vợ tôi lại quay về Mỹ Tho, tuy có thai nhưng nàng vẫn buôn bán bình thường vì nàng khỏe lắm, với lại để lo cho tương lai chúng tôi thì nàng không ngại điều gì, có cực cách mấy cũng được, mãi đến gần Tết Mậu Ngọ 1978 nàng mới lên lại ăn Tết với tôi. Tuy lúc đó nàng đã có bụng rồi nhưng đứa con đầu lòng không hành nàng lắm nên nàng vẫn lên về đi buôn bán như lúc trước, còn tôi thì vẫn sống một mình trong ngôi nhà tranh nhỏ, ban ngày đi cạo mủ, ban đêm đi tập văn nghệ, vì trong Nông trường họ biết anh em tôi có khả năng đó nên họ mời vào. Phụ trách văn nghệ có ông Chuyên là tài xế của Nông trường, ông chỉ có máu mê thôi chứ không biết gì, với lại ông có nghề giao thiệp hay lắm, xin chỗ này xin chỗ kia kinh phí này nọ nên đội văn nghệ không sợ thiếu thốn.

Một đêm đầu năm, chúng tôi diễn văn nghệ tại sân vận động Bình Đức, tức là ở Làng, còn phía trên nơi anh chị tôi ở là ấp Đức Trung, khu Trung tâm, dân quen gọi là Xăng (Centre) theo cách gọi của Pháp trước kia. Đêm văn nghệ diễn ra khá sôi nổi và hào hứng, gần hết chương trình thì bỗng dưng có hai anh thanh niên xưng là ở Bà Rịa lên chơi, xin cho họ hát một bài, một anh người gốc Khmer tên là Y Von, một anh tên là Đỗ Thanh Cao trạc tuổi tôi. Chúng tôi đồng ý và hai anh ấy lên sân khấu, anh Y Von vừa đệm đàn vừa hát bè còn Thanh Cao thì hát chính, họ hát bài Lá Đỏ chúng tôi nghe rất lạ và hay, bởi vì thời ấy trên này đâu có thông tin gì về ca khúc mới, nên cứ hát những bài quen thuộc như Tự Nguyện, Tiếng hát những đêm không ngủ, Bão nổi lên rồi, Sài Gòn quật khởi, cô gái Sài Gòn đi tải đạn… còn bài này tôi nghe lạ quá. Hát xong là tôi giao lưu làm quen liền. Y Von hơn tôi hai ba tuổi còn Cao thì hơn tôi một tuổi, nhà ở Bà Rịa, Cao sẵn lên thăm người chị tên là Thu làm công nhân lao động phổ thông ở trên này, thấy vậy nên lên giúp vui vì họ cũng ở đội văn nghệ Bà Rịa. Thời ấy cũng đâu có việc gì làm nên tôi bảo lên trên này xin việc đi, Cao bảo ở nhà cũng có ý định đó nên làm đơn rồi và vài tuần sau, Cao được nhận vào làm công nhân LĐPT, lúc thì đi phụ xế, lúc làm nhà mủ, bốc vác hoặc ra ngoài lô cao su phát chồi cho sạch, lương thì không bằng công nhân cạo mủ nhưng ít ra cũng có công ăn việc làm trong thời buổi khó khăn này. Nhà Cao ở rẫy cách Nông trường khoảng năm sáu cây số, thường ngày đạp xe sớm đi làm, còn nếu không thì ngủ lại nhà của chị bạn ấy. Y Von thì vẫn ở Bà Rịa chứ không lên xin việc trên này.

Cao cũng chỉ học tới lớp 11 thôi rồi nghỉ, ở nhà làm rẫy trốn quân dịch, khi biết tôi cũng là dân thành phố về nên thân nhau mau lắm. Lúc đó tôi vẫn còn đi cạo nên tối nào Cao ở lại không về rẫy thì ghé nhà tôi chơi, vì ban ngày đâu có gặp nhau. Đêm về hai thằng ngồi ca hát thỉnh thoảng nhậu nhẹt cũng vui lắm, gần nhà tôi lại có gia đình anh Xê từ Suối Nghệ về, anh cũng biết đàn nên chúng tôi quen nhau rất mau. Anh Xê ấy có vợ là chị Nga, hai vợ chồng đều làm công nhân cạo mủ như tôi, lúc đó chị ấy mới sinh ra một bé gái rất dễ thương đặt tên là Vy, mỗi lần vợ tôi lên thăm là chúng tôi qua mượn ẵm bé Vy về nhà chơi một hồi, lúc ấy vợ tôi có thai cũng sáu tháng rồi, chị Nga ấy có đạo nên chúng tôi cũng thân nhau lắm, còn anh Xê thì không có đạo, hai người thương nhau thì ở với nhau chứ không làm phép cưới gì cả. Ba chúng tôi trạc tuổi nhau lại sống trong hoàn cảnh khó khăn này nên mỗi khi có dịp là hàn huyên, nhậu nhẹt và đàn hát, mang tiếng là nhậu nhẹt nhưng có gì đâu, chỉ dăm ba trái ổi và xị rượu thôi chứ chúng tôi làm gì có tiền? lương chỉ đủ trang trải cuộc sống là mừng rồi.

Hôm nọ sau khi cạo xong lên xe về thì ông Chuyên gặp tôi, vì hôm đó ông lái xe đưa rước chúng tôi mà, ông bảo mày có muốn về làm công nhân lao động phổ thông không để ông xin cho, tuy lương thấp hơn công nhân cạo mủ một chút nhưng đỡ cực hơn, tôi bảo tôi đâu có đủ sức bốc vác hay làm nhà mủ được mà làm. Ông bảo để tao nói mấy ổng không để cho mày làm nhà mủ đâu, mà làm ba cái việc linh tinh khác, để cho mày có thời gian tập văn nghệ. Nghe cũng được nên tôi bàn với vợ tôi và vợ tôi đồng ý, chứ thấy cảnh tôi đi cạo mủ ngoài rừng cao su gian nan cực khổ quá, người ốm o xanh xao như thằng chết đói, thôi thì nếu thoát được cảnh ấy thì cứ thoát chứ lương lậu chênh lệch một chút cũng chẳng sao, vì vợ tôi buôn bán có đồng ra đồng vào rồi. Tôi nhận lời và thế là ông Chuyên bàn với ông Xu Đạt lúc ấy là Giám đốc, Xu nghĩa là gọi tắt Surveillant tiếng Pháp nghĩa là quản đốc ngày xưa ấy, ông Xu Đạt đồng ý và tôi nghỉ đi cạo mủ, hàng ngày lên đội Trung tâm làm ba cái chuyện lặt vặt như làm băng rôn khẩu hiệu, vẽ khẩu hiệu quanh nông trường, tối về lúc nào có dịp lễ thì tập văn nghệ cho nông trường, còn không thì thôi.

Thời gian đó tôi có sáng tác bài Khúc hát Nông trường Cao su tập cho đội văn nghệ đi trình diễn trên Công ty Cao su Đồng Nai và đoạt giải nhất cho ca khúc tự biên, về sau bên nhà trường cũng nhờ tôi tập bài này cho các em học sinh đi diễn ở Bà Rịa và cũng đoạt giải B gì đó, bởi thời ấy đơn vị nào có ca khúc tự biên thì được ưu ái và chiếu cố lắm. Lúc ấy thì Nông trường tin tôi rồi, hàng ngày tôi đi vẽ khẩu hiệu bên cơ xưởng vận tải, rồi đến trường học các thứ, cứ làm mệt thì nghỉ chứ chẳng ai quản lý giờ giấc gì, họ cứ ra thấy bộ mặt nông trường đổi mới khẩu hiệu nơi này nơi kia thì vui rồi chứ chẳng nói gì tôi. Thế là chỉ sau hơn hai năm, tôi được thoát khỏi cái nghề vừa gian khổ vừa hôi hám cực nhọc này, anh rể tôi và bạn bè của tôi vẫn còn cạo mủ vất vả ngoài vườn cây, họ cũng mừng cho tôi khỏi phải cực nhọc như họ. Những gian khó trong đời bây giờ ngồi nhớ lại như những thước phim quay chậm trôi theo dòng đời, qua bao nhiêu gian khổ, tôi đã trưởng thành hơn, và sau khi có gia đình, tôi đã chín chắn hơn trong công việc và cả trong suy nghĩ.

Lúc ấy thì có sự thay đổi nhân sự trong Nông trường, ông xu Đạt vì lớn tuổi quá nên phải nghỉ hưu, ai cũng nghĩ ông Xu Nghĩa là phó giám đốc lên thay nhưng vì ông Nghĩa không phải là đảng viên nên không tiến cử được, người ta đưa một ông đảng viên từ Nông trường Bình Sơn tên là Năm Chiêu về làm giám đốc thay cho ông Đạt. Ông Chiêu này trẻ hơn, tuổi chừng năm mươi và sống một mình, không đưa vợ con về theo. Ông Năm Chiêu nghe nói tôi có học hành thì cũng thích tôi lắm, ngoài việc vẽ khẩu hiệu các thứ bên ngoài, ông hay kêu tôi vào văn phòng vẽ các biểu đồ giúp ông, nào là bản đồ nông trường, nào là bảng biểu các thứ, rồi hình ảnh bác Hồ, phông màn văn nghệ, rồi trình diễn văn nghệ các nơi, công việc cũng cuốn hút thời gian của tôi ngày này sang ngày khác, lúc ấy vợ tôi cũng đã gần đến ngày sanh, bụng to lắm rồi nhưng nàng vẫn lên về mua bán chứ chưa nghỉ.

Một lần nọ, theo yêu cầu thì văn nghệ Nông trường cử hai người đi thi đơn ca cấp tỉnh, trước hết là cấp huyện, họ cử tôi đưa đi để hướng dẫn tập dợt cho hai người là Thanh Cao và Song Huê, cô Song Huê này cũng hát hay lắm, là em của Quang sau này là em rể tôi. Họ cho xe đưa ba người xuống Nhà Văn Hóa ở Bà Rịa để thi tuyển vòng đầu, nếu đạt thì sẽ đi thi ở tỉnh. Đến khi thi, hai bạn Thanh Cao và Song Huê sau khi luyện tập kỹ nên hát rất đạt. Ba chúng tôi về nhà Cao tại Bà Rịa trú tạm qua đêm để chờ ngày mai biết kết quả. Tối hôm ấy, chúng tôi ra nhà văn hóa xem chiếu phim. Đang lúc xem thì bỗng nghe thông báo trên loa bảo rằng có ai đó muốn tìm gặp anh Lân ở Nông trường Bình Ba. Tôi hết hồn chạy lại thì nhận ra đó là vợ tôi. Hóa ra là trong lúc tôi đưa hai người đi thi thì vợ tôi lên, nàng hỏi người ta thì người ta cho biết tôi đưa cô Song Huê gì đó đi thi văn nghệ ở Bà Rịa, vợ tôi nghe vậy thì tức quá, sao lại để nam nữ đi chung rồi ngủ lại Bà Rịa nữa chứ, máu ghen nổi lên, nàng xé tấm hình tôi vẽ hai vợ chồng trên vách rồi chiều hôm đó đón xe về Bà Rịa tìm tôi, sau khi hỏi thăm thì nàng đến Nhà Văn hóa Huyện Châu Thành nhờ tìm giúp, do vậy mà gặp được tôi. Hỡi ôi, hóa ra là nàng chưa hiểu chuyện, vì chúng tôi đi cả ba người chứ có phải tôi đi riêng với cô ấy đâu, mà cô Huê ấy anh chàng Cao cũng đã để ý tán tỉnh từ lâu chứ tôi có vợ rồi đâu cần phải tòm tem như thế, đi thi đây là đi thi cho nông trường, tôi tập cho họ thì họ bố trí tôi đi để hướng dẫn chứ tôi có màng gì đâu. Tôi phải thanh minh cho nàng một hồi rồi nàng mới hiểu, mới hết giận. Tối hôm ấy chúng tôi cùng hai bạn ấy ngủ lại nhà của anh Cao rồi sáng mai, khi biết kết quả là cô Song Huê ấy được chọn, còn anh Cao thì không, cô Huê ấy sẽ do Nhà Văn hóa Huyện hướng dẫn và bố trí lên đi thi trên tỉnh. Sau đó chúng tôi đón xe về nhà, và cũng kể từ đó, vợ tôi ghen ghê gớm, chuyện gì cũng nghi ngờ tôi, có lẽ đó là tâm trạng chung của những người phụ nữ đang mang thai khi có anh chồng văn nghệ thì phải? Tuy vậy tôi vẫn tỉnh bơ vì chính lương tâm tôi đâu cho phép mình làm chuyện bậy bạ, tôi yêu vợ tôi và chính tôi cũng phải cố gắng cho nàng hiểu được sự chung thủy của mình.

Nghỉ chơi ít hôm ở nhà, sau đó nàng về lại Mỹ Tho để chuẩn bị vì chỉ còn một tháng nữa là sinh. Mẹ nàng không dám cho nàng sinh trên này, sợ rằng không đủ điều kiện y tế, cụ nhất quyết phải đưa Thảo về dưới sinh nở cho an toàn thôi. Tôi vẫn hàng ngày lên văn phòng vẽ nhiều thứ khác cho ông Giám đốc mới. Ông ấy quý tôi lắm, mỗi lần vẽ là cứ vào phòng giám đốc làm thoải mái, ông đi đâu thì ông cứ giao phòng lại cho tôi, kêu tạp vụ pha cà phê nước trà cho tôi đầy đủ. Thực hiện xong biểu đồ nào ông cũng thích và khen tôi dữ lắm, rồi lại tiếp tục vẽ các thứ cho công đoàn, đoàn thanh niên, và cả vẽ cho phòng bảo vệ một tấm chân dung bác Hồ nữa. Ông Năm Chiêu thấy tôi làm một mình xoay sở cũng cực nên hỏi tôi có cần thêm người nào phụ nữa không, tôi nói cần và giới thiệu anh Cao với ông. Ông đồng ý ngay và anh chàng Cao khỏi bốc vác bên nhà mủ nữa, qua bên này phụ tôi vẽ nhiều thứ lắm. Từ đó hai chúng tôi thoải mái, sáng nào Cao cũng đạp xe lên trễ một tí cũng được, hai đứa ngồi uống cà phê ở quán của Bà Hợi, bà ấy có cô cháu gái xinh lắm về bán quán nên anh chàng Cao lăm le hoài nhưng chưa tán được, chúng tôi đâu có tiền nên ngoài ly cà phê ra hai đứa chỉ dám kêu một điếu thuốc thơm Garick rồi hút chung, còn lại thì vấn thuốc rê mà hút, xong rồi lên văn phòng vẽ vời các thứ. Nhà trường thấy chúng tôi làm được việc quá nên anh Lâm Hữu Hiệp là hiệu trưởng lên xin ông giám đốc biệt phái hai chúng tôi về phụ giúp trang trí cho nhà trường một tháng, ông Giám đốc đồng ý ngay, khi nào cần thì gọi tôi qua. Từ ngày đó chúng tôi cứ qua thẳng nhà của Hiệu trưởng và thầy cô rồi họ cần gì ở trường thì mình làm nấy, hết việc thì tập văn nghệ cho học sinh để đi hội diễn, hai đứa chúng tôi nhàn nhã và cũng sinh hư, vì hầu như chiều nào anh hiệu trưởng cũng bày ra nhậu nhẹt ca hát, tối về ngủ một mình, lâu lâu có khi Cao ở lại ngủ chung với tôi.

Quãng thời gian này miền Nam lâm vào cảnh lũ lụt đói kém, phần gạo công nhân bị cắt gần hết, chỉ còn 1 kg gạo, có khi chỉ nửa kg gạo thôi, còn bao nhiêu toàn là ăn độn, nào là khoai mì, bắp, bo bo, bột mì các thứ. Giữa lúc khó khăn đó thì vợ tôi sinh con trai, phải một tuần sau tôi mới nhận tin và xin phép về thăm. Chúng tôi đặt tên nó là Thái Toàn, Thái là sáng láng và Toàn là toàn vẹn, mong cho cuộc đời nó được mãi như vậy. Nhìn đứa con đầu lòng thấy tâm trạng thật là khó tả, nghe đâu trước khi sinh vợ tôi bị đau răng nặng lắm, đi nha sĩ mà họ không dám nhổ vì gần ngày sinh quá, thấy Thảo ôm con mà tôi vừa mừng vừa ứa nước mắt, thương không thể nào kể xiết, bởi từ một cô nữ sinh ngây thơ mà nay đã chín chắn gấp trăm lần. Hôm tôi về thì con tôi đã ra đời được một tuần, nghe bác sĩ bảo là nó bị xệ ruột, đè xuống bàng quang nên tiêu tiểu rất khó khăn, thời ấy đâu có thuốc chữa, chỉ biết lấy một miếng băng gạc cột quanh bụng nâng lên mà thôi, may sao mà sau đó cũng hết. (TOP)

Làm Thư ký Đội

Thăm vợ con được vài ngày, tôi phải quay trở về để làm việc. Bấy giờ khu vực nhà tôi đã có người đến ở, họ cũng xí phần như tôi, trong đó có anh ruột tôi từ Cai Lậy lên cũng xin làm công nhân cạo mủ, anh tôi chiếm chỗ nền sát bên cạnh nhà tôi. Công ty bắt đầu kêu chúng tôi dọn dẹp sạch sẽ khu vực chung quanh để họ đổ vật liệu xuống xây nhà trên các nền cũ sụp đổ vì bom đạn chiến tranh, toàn khu vực Bình Đức cũng phải đến mấy chục căn. Nghe vậy những công nhân cũ nhà ở phía trong tiếc hùi hụi vì không chịu ra chiếm chỗ trước, nhưng chúng tôi cũng đang là công nhân thì chúng tôi vẫn có quyền được hưởng những ngôi nhà đó chứ. Về phần công việc, sau khi vẽ vời các thứ xong xuôi, họ thấy nếu trả tôi lại đi cạo mủ thì uổng quá, sau này muốn cần gì thì không nhờ được cho nên họ bố trí tôi Phụ Thư ký Đội sản xuất, được mấy tháng sau thì có quyết định chính thức chức danh ghi là Nhân viên thống kê Đội, trực thuộc Đội sản xuất Trung tâm và Văn phòng Nông trường, làm chung với bác Bùi Văn Can ở Văn phòng Đội đặt tại Bình Đức, gần sân banh. Bác Can là người làm thư ký đội từ hồi Pháp, nhưng bác hay bất bình so kè với bác Mai Kỳ Châu là Chánh văn phòng kiêm Kế toán trưởng nên bác bị đì hoài, không tiến thân được. Họ bố trí cho tôi vào phụ với bác, còn Cao thì chuyển sang làm công nhân ghép cây, lúc nào văn nghệ hoặc nông trường cần việc gì thì dễ quy tụ hơn. Công việc thống kê đội là thống kê ngày công, sản lượng khoảng 600 công nhân trong đội để lấy cơ sở đó tính lương cho họ, đối với tôi thì dễ như trở bàn tay, tôi tự tạo ra nhiều bảng kê, bảng biểu và parem nên khi cần tính toán ngày công và sản lượng mủ của công nhân thì nhìn vào parem sẽ ra ngay, do vậy mà bác Can tha hồ nghỉ, lúc thì qua văn phòng Ủy ban vì bác làm Thư ký của UBND, lúc thì về nhà bác nghỉ vì đã có tôi lo mọi việc hết rồi, bác dặn nếu Văn phòng có hỏi thì cứ nói bác đi công tác bên Ủy ban xã là xong, tôi cứ trực làm ở đó theo giờ hành chánh, hết giờ thì về nhà.

Sau khi Thái Toàn con tôi được 3 tháng, tôi xin phép nghỉ vài ngày để về Mỹ Tho đưa vợ con tôi lên, thời điểm ấy vì lũ lụt đói kém mất mùa nên khó khăn quá, vợ tôi đâu còn mua bán gì được vì lo cho con nhỏ nên thà lên nhà tôi rồi no đói có nhau, chứ dưới nhà cậu mợ tôi hồi này buôn bán cũng ế ẩm khó khăn lắm, người Bắc gọi cha mẹ là Cậu Mợ nên tôi cũng quen cách gọi này. Tôi không muốn làm gánh nặng cho mợ, trong lúc cậu vẫn còn bị đi học tập cải tạo chưa biết ngày về.

Đường về miền Tây lũ lụt nước tràn qua cả quốc lộ, xe đò cứ băng qua vậy mà đi. Đến nơi, tôi thấy Thái Toàn con mình đã lớn, bụ bẫm dễ thương ghê lắm, vợ tôi cũng đã khỏe lại rồi, tuy nhiên mợ tôi rất kỹ, vẫn nhét bông gòn vào hai lỗ tai vì sợ gió máy, ảnh hưởng về sau. Ngày lên đường, biết rằng trên tôi đang đói, phải ăn bo bo trừ cơm nên mợ tôi tuy không khá giả gì, nhưng cũng sớt cho chúng tôi ba bốn kg gạo gì đó đổ vào trong cái hũ bằng thủy tinh rồi nhét vào xách tay, chèn áo quần chung quanh lại để giấu, vì bấy giờ nhà nước ngăn sông cấm chợ, không được mang lương thực đi đâu cả, dù 1 kg họ vẫn tịch thu. Cái thời khốn nạn này đeo đẳng suốt mấy năm làm nhân dân kiệt quệ, gạo hay đậu xanh hoặc bất cứ thứ hàng gì đều chỉ được dùng tại chỗ, chứ mang đi trên đường thì đều bị bắt và tịch thu, chỉ tổ làm giàu cho bọn quản lý thị trường khốn kiếp, hàng hóa bắt được không cần lập biên bản, chúng muốn làm sao thì làm, nên đứa nào đứa nấy béo tốt phương phi, chạy Honda mồm phì phèo những điếu thuốc ngoại nhập lậu do chúng tịch thu được. Từ Mỹ Tho lên Sài Gòn phải đi ngang qua Trạm Tân Hương, nếu qua được trạm này thì khá ổn, vì trạm Ngã ba Vũng Tàu lưu lượng xe nhiều nên không xét kỹ bằng.

Ngại nhất là Trạm Tân Hương, nhưng hên là chúng nó thấy đàn bà đẻ nên cũng không xét kỹ lắm, còn những người khác bị bắt vô số kể, người thì khóc lóc van nài để xin lại, kẻ thì chửi rủa um lên, nhưng bọn chúng vẫn trơ mặt ra đó, không biết đến nỗi khổ của nhân dân là gì. Xe chúng tôi qua được và lên Sài Gòn, tới đó chúng tôi lại phải đi xe buýt về Bến xe Miền Đông rồi mua vé xe về Bà Rịa, chúng tôi có bà đẻ con nhỏ nên cũng được ưu tiên hơn khi mua vé, chiếc xe than đến được Bà Rịa thì trời cũng đã về chiều, sau trận mưa lớn nên chỉ còn lất phất, chúng tôi bước xuống xe, ngơ ngáo làm sao mà quên cài cái túi xách lại, cái hũ gạo nặng quá nên tuột ra rơi xuống bể nát trúng ngay vũng nước, gạo văng tung tóe trên vũng nước mưa nâu òm, tôi chỉ biết kêu trời, nước mắt tự dưng chảy ra vì tiếc muốn đứt ruột, tôi bảo Thảo ôm con đứng trú tạm bên mái hiên gần đó rồi lấy một cái khăn, hốt đống gạo nâu bùn ấy đem về nhà, sau này lượt ra phơi lại để có cái ăn chứ lúc ấy nhà chỉ có nửa kg gạo mốc, còn toàn là bo bo. Đến nhà thì trời đã chạng vạng tối, tôi chạy qua nhà bà Năm mẹ chị Hai Nguyệt gần đó vay một kg gạo về cho vợ tôi ăn, vì nhà bà có ruộng làm riêng trong rẫy nên có gạo ruộng, nhưng bà cũng chẳng còn nhiều nên chỉ cho tôi vay 2 lon thôi. Mừng quá, tôi đem về nấu cơm cho Thảo nhưng nàng nói cứ trộn thêm bo bo vào đi, nàng ăn được.

Nghe nói tôi đưa con lên thì hôm sau mẹ và chị cả tôi đến thăm, nhà nghèo chẳng có gì nên chỉ kho chút cá bống cho vợ tôi ăn cơm, nhìn Thái Toàn đứa con đầu lòng mới ba bốn tháng mà đôi mắt sáng quắc, láo liên nhìn bên này bên kia thấy thương vô cùng. Giờ ngồi nhớ lại mà không cầm được nước mắt, ngày nay con cái mình đã lớn, đã thành đạt, muốn ăn gì có nấy, chứ đâu phải như lúc nó sinh ra cực khổ cả mẹ lẫn con như thế này. Ấy thế mà chúng tôi vẫn vượt qua được, tôi đi làm, vợ tôi ở nhà hàng ngày nuôi con, số gạo đổ mà tôi vớt được cũng gạn lại được một mớ, phơi cho sạch rồi cũng ăn được, tôi thì chỉ một nồi bo bo là xong, chỉ tội cho nàng, nàng cứ bảo nấu cơm trộn bo bo cho nàng kẻo không đủ gạo. Con trai đầu của tôi lớn lên như thế đó, được nuôi dưỡng bằng sữa mẹ do gạo trộn bo bo như thế đó, Thái Toàn vẫn lớn đều và rất dễ thương, ai nhìn thấy cũng đều khen nó có đôi mắt sáng.

Thời gian này thì Nông trường lại có biến. Chẳng hiểu bên an ninh điều tra sao đó mà ông giám đốc Năm Chiêu bị quy là thành phần phản động hay gián điệp gì đó, có liên hệ với đám tàn quân hồi trước hay sao tôi không rõ, ông bị công an tỉnh đến bắt bàn giao lại cho Phó giám đốc là ông Xu Nghĩa rồi đưa ông đi lên Công an tỉnh. Ông Nghĩa thay quyền giám đốc điều hành mọi chuyện. Nông trường lúc ấy rất là ngột ngạt, ai nấy nhìn nhau bằng ánh mắt nghi ngại, nhất là kể từ khi ông Nguyễn Văn Võ là dân miền Bắc về, ông Võ là đảng viên ngoài Bắc vào nên thời ấy ra uy dữ lắm, chỉ làm đội phó thôi nhưng thuộc Đảng ủy Nông trường nên có vẻ ta đây hoạnh họe đủ điều, những người như ông Xu Nghĩa tuy là Phó Giám đốc nhưng vì không có đảng nên thất thế hơn, do đó mà chân Giám đốc vẫn chưa có người chính thức thay thế, ông Nghĩa chỉ là quyền Giám đốc thôi, chứ mỗi lần họp Đảng bộ thì không có mặt ông. Anh em văn phòng chúng tôi thì mặc xác họ, mình chỉ lo công việc mình hoàn thành tốt là xong.

Đến khi con được 6 tháng, chúng tôi gởi nó vào Nhà Trẻ nông trường và vợ tôi xin đi làm Lao động phổ thông, cũng chỉ làm được đôi ba tuần thì Bác Hiền lúc ấy là Đội trưởng Đội Phổ thông, bác thương chúng tôi lắm, thấy vợ tôi có học, cũng đã đậu Tú Tài rồi mà làm vậy thì tội quá, nên bác lên xin Ban lãnh đạo nông trường cho bác một chân thư ký, bởi trước giờ Đội Phổ thông không có thư ký, chỉ có khoảng gần 300 công nhân thôi, chị Ngọc là thư ký sổ lương phải làm choàng công việc này, nay công việc nhiều nên chị Ngọc cũng phản ảnh hoài vì mệt quá, lãnh đạo nông trường cũng đồng ý và tạm thời cho Đội phổ thông có một nhân viên thống kê, chứ chưa có được biên chế chính thức. Bác Hiền đề xuất vợ tôi và họ đồng ý, mặc dù lúc đó cũng có một số ganh ghét bảo rằng sao hai vợ chồng này sướng quá, đều được làm thư ký, nhưng những người biết chuyện thì họ thanh minh giùm chúng tôi là chúng tôi đã có bằng Tú tài rồi nên nông trường cần có người có học vấn cũng là đúng thôi.

Trong những ngày này nổ ra mặt trận phía Tây Nam, biên giới giữa Việt Nam và Campuchia. Pôn Pốt xua quân qua tàn sát dân vùng biên giới nên mọi người được lệnh tổng động viên lên đường chiến đấu, rất nhiều người có ngày đi mà không có ngày về, thanh niên từ 18 đến 27 tuổi đều phải lên đường nhập ngũ, ngoại trừ những người trực tiếp lao động sản xuất thì mới được ở lại, tôi thuộc diện bị động viên vì không còn trực tiếp lao động mà đã là nhân viên văn phòng rồi, tuy nhiên sau đó họ thấy gia đình tôi có con nhỏ nên được miễn. Không bị động viên, nhưng ở hậu phương phải làm công tác nhiều lắm, tất cả các ngày chủ nhật đều làm công tác gọi là Ngày lao động xã hội chủ nghĩa nên không có lương, lúc đó tôi cũng đã là đoàn viên thanh niên nên cũng phải đi công tác như các thanh niên khác. Chúng tôi vào rừng Xuân Sơn chặt cây về dựng nhà, lên Xà Bang đào ao cá, nhưng gặp may là những lần công tác như vậy cần phải có một bộ phận tuyên truyền vận động nên họ bố trí tôi làm Trưởng nhóm Văn nghệ xung kích, gọi là Nhóm ca khúc chính trị để tạo khí thế cho những ngày lao động không lương đó, trong nhóm có Cao và những người khác nữa, do vậy mà chỉ những ngày đầu đi chặt cây ở rừng Xuân Sơn là tôi phải trực tiếp lao động thôi, còn về sau thì chúng tôi chỉ mang đàn guitar, ampli và loa theo tuyên truyền và hát hò để động viên mọi người, nhờ vậy mà tôi khỏi phải ra chiến trường. Nhóm ca khúc chính trị này tồn tại mãi đến cả mấy năm về sau, cứ mỗi lần có đại hội hoặc dịp lễ nào đó là chúng tôi tổ chức văn nghệ rất xôm tụ. Biết sao bây giờ? thích hay không thích cộng sản đi nữa thì cũng phải làm vì chúng ta như con cá nằm trên thớt, chứ thời kỳ ấy rất là đen tối, khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ biết mới sống sót được thôi. (TOP)

Vượt biên lần đầu

Năm 1979, sau những lần dùng dằng khó hiểu, họ kết nạp ông Nghĩa làm đảng viên và quyết định chính thức cho ông làm Giám đốc Nông trường, ông Võ làm Phó Giám đốc hành chánh, lúc ấy Công ty yêu cầu Nông trường cần bổ sung thêm một chức danh mới là Cán bộ phụ trách Thi đua, ông Nghĩa đề xuất tôi vào công việc đó và cấp trên đã chấp thuận chính thức. Lúc này ông Can đã đến tuổi hưu nên phải nghỉ, họ tuyển thêm hai người là Thanh và Huệ vào cho tôi hướng dẫn chỉ bảo công việc thống kê đội, đến khi hai bạn ấy rành rẽ công việc thì tôi mới chính thức lên văn phòng làm Cán bộ Thi đua, để hai bạn ấy làm công việc thống kê ở Đội thay cho tôi. Tôi theo học Lớp Cán bộ Thi đua do Tổng Công đoàn phụ trách khoảng 2 tuần, sau đó về nhiệm sở. Lúc này Thái Toàn con tôi đã được 1 tuổi và nhà đã xây xong, chúng tôi dọn vào nhà mới khang trang và sáng sủa hơn. Nhà nhìn ra mặt tiền đường, có một khoảng sân phía trước rất rộng, tôi chỉ để cỏ mọc cho đẹp chứ không trồng thêm gì. Nói chung thời điểm đó thì chúng tôi khá là ổn định, vợ chồng đều có việc làm và nhà cửa đàng hoàng rồi. Tôi lại sắm được một cái cassette cũ về và lần đầu tiên biết ban nhạc ABBA là gì, mỗi lần nghe là phải cắm vào hai cái cọc bình accu vì Nông trường đâu có điện thường xuyên, chỉ có buổi sáng sớm và buổi tối cho công nhân nấu cơm đi làm thôi, nhưng như thế cũng là tạm đủ.

Mỗi ngày, sau khi đi làm về, tôi lại quảy gánh ra ngoài giếng gánh nước về cho vợ, bởi Thảo không biết gánh nước, đi làm về lo cho con và nấu nướng là hết thời gian rồi. Nuôi con cũng chẳng dễ dàng gì, Mới 6 tháng con tôi bị ho dữ dội, người ta bảo là ho gà, nhưng được cái vợ tôi mát tay nên bệnh gì cũng qua khỏi, chỉ có lúc cháu gần được 1 tuổi thì bị bệnh gì lạ lắm, thời ấy không hiểu và chữa trị được, chân của cháu tự dưng mọc lên một đốm nhỏ bằng đồng xu màu đỏ, rồi nó lan ra rất nhanh, cháu sốt và qua hôm sau nó lan ra to bằng cái bát, chúng tôi vô cùng hốt hoảng, đưa lên bệnh xá thì họ cũng cho vài viên Xuyên tâm liên nghiền ra uống chẳng công dụng gì, tôi hỏi người trong làng thì họ bảo đó là bệnh huyết vận, phải giã nát đậu xanh trộn với phân heo đắp vào thì mới hết sốt, tôi chạy lên trại heo nông trường tìm một ít phân và làm theo lời họ, cũng vẫn không hết, vết bầm đỏ lan ra cả bắp chân làm phồng rộp lên từng đốm như bị bỏng, thương con quá mà chẳng biết làm gì, đến chiều thì nghe người ta chỉ cho, chạy vô một bà mụ người Quảng Trị ở cuối làng nhờ bà ấy chích lễ xem sao, đưa vào thì bà mụ bảo là biết bệnh này, mụ lấy kim chích lễ vòng quanh đốm đỏ ấy rồi nặn máu ra, con tôi khóc như bị cắt tiết, thường ngày ở nhà, mỗi lần muốn cháu cười chỉ việc nói cười xã giao đi con là nó cười, nên khi đó chúng tôi cũng luôn miệng kêu con cười xã giao đi con, cười xã giao đi con, nó cố gắng cười mà hai hàng nước mắt tuôn như mưa, thử hỏi xem, đã sốt lại bị phồng rộp như vết bỏng mà lại chích sát bên đó để nặn máu ra thì ai mà chịu nổi? Thế mà nó vẫn cố gắng cười trong nước mắt thấy tội nghiệp vô cùng, làm chúng tôi cũng rơi nước mắt theo con. Chích lễ xong lấy vải sạch băng lại cẩn thận, quả nhiên tối đó, cháu hết sốt và vết thâm đỏ ấy không lan ra nữa, qua mấy ngày sau thì lặn dần, chẳng cần dùng thuốc thang gì cả, chúng tôi đưa tiền đến tạ ơn mụ nhưng mụ không lấy nên mua một nải chuối cho mụ. Sau này cái kinh nghiệm ấy tôi cũng nói cho nhiều người biết, khi bị huyết vận thì cần phải chích lễ chung quanh vết bầm đó và nặn máu ra thì sẽ khỏi, đừng để cho nó lan lên đến háng thì như mụ nói, lúc đó sẽ không còn cứu chữa được nữa.

Sinh nhật đứa con đầu lòng, chúng tôi chỉ làm một con gà và chỉ mời một mình anh Cao tới ăn bữa cơm chung thôi, vì mẹ tôi lúc đó đi lên nhà bà con chơi ở trong rẫy Long Khánh rồi nên tôi chẳng làm gì mà mời ai. Sinh nhật xong thì con tôi lại bệnh nặng, tự dưng ốm o gầy mòn lại, người ta kẻ thì bảo là bị ban cua, người bảo là ban khỉ, nhưng trạm y tế thì bảo là suy dinh dưỡng. Có người chỉ cho rằng phải kiếm ra con gà ác, cắt tiết, không cần nhổ lông, mổ bụng ra và áp con gà vào ngực cháu, tôi cũng làm y như họ chỉ nhưng chẳng công dụng gì. Cháu nó chưa đầy năm thì đã biết đi, thế mà sau cơn bệnh nó gầy tọp lại, đứng cũng chẳng nổi, chúng tôi phải đưa lên Bệnh viện Suối Tre ở Đồng Nai điều trị mất cả tuần mới khỏi. Lúc đó mẹ tôi đang ở nhà bà con ở Long Khánh nên có ghé vào bệnh viện thăm cháu. Sau khi sức khỏe khá hơn thì họ cho xuất viện, kể từ đó thì nó khỏe hẳn, chẳng có bệnh gì đáng ngại cả. Nó càng lớn càng dễ thương, có đôi mắt sáng và nụ cười hiền, ai đến chơi cũng khen. Sau đó nhân đi chợ Bà Rịa theo xe nông trường, chúng tôi đưa nó đi theo và ghé tiệm chụp hình chụp một pô hình ba người rất đẹp, hai vợ chồng hai bên, nó mặc chiếc áo phi công màu cam đội nón ngồi giữa rất dễ thương, nhưng sau này tấm hình đó thất lạc đâu rồi uổng quá.

Công việc thi đua chẳng có gì, chỉ việc ra vườn cây đến tổ này tổ nọ xem ai làm tốt, có năng suất cao thì tổng hợp lại báo cáo về trên, do đó mà tôi có nhiều thời gian rảnh, toàn là làm báo cáo cho Ban Giám đốc như một người trợ lý vậy. Lúc ấy là khoảng đầu năm 1980, nhà tôi có tin buồn. Anh rể tôi và anh ruột tôi hai người vào cưa cây cao su mục để về làm củi bán, chẳng may cây ngã không đúng hướng, đập vào đầu anh rể tôi quá bất ngờ, anh rể tôi không tránh kịp, mặc dù anh là một người đi rừng rất lành nghề, khiến anh tôi qua đời lúc tuổi còn rất trẻ, chỉ mới 32. Chị tôi đau buồn lắm, vì anh tôi là trụ cột trong gia đình, là người hướng dẫn chỉ dạy tôi từng bước một từ lúc mới làm công nhân, thế mà không thoát khỏi định mệnh được. Tôi phụ chị tôi lo mai táng cho anh tôi đâu đó xong xuôi, lúc ấy chị tôi làm lao động phổ thông nên cũng có gạo và nhu yếu phẩm sống được. Anh rể tôi qua đời nên từ đó tôi phải kiêm luôn ca đoàn ở nhà thờ thay cho anh tôi.

Thời cuộc Việt Nam bấy giờ rất gò bó, bất công và chán ngán, gần một triệu người bỏ nước ra đi, tôi cũng vậy, tuy không còn phải đi cạo mủ cực khổ nhưng thấy tình hình kinh tế và xã hội u ám quá nên tôi bàn với vợ tôi tìm cách vượt biên vì nghe nói người ta ra đi bằng đường biển cũng không có gì khó khăn. Tôi quen với Thiếu tá Phúc và người em là Tước ở trong rẫy, họ cũng có ý định ra đi như tôi. Sau khi hỏi thăm nhiều lần ở Vũng Tàu, tôi được biết mỗi người tốn 1 cây rưỡi vàng thôi. Tuy trong nhà tôi chẳng có tiền vàng gì, nhưng vợ tôi nói về Mỹ Tho mượn mợ tôi được, và thế là làm ngay, vợ tôi về Mỹ Tho và mượn mợ 3 cây vàng đem lên vì lúc đó mợ buôn bán cũng đã khấm khá rồi, nhất quyết không về miền Tây đi kinh tế mới nữa. Cầm vàng trên tay chúng tôi cũng run lắm, nhưng chúng tôi đã nhất quyết ra đi rồi, qua bên đó kiếm tiền trả lại cho mợ sau nên không lo lắng gì lắm.

Sau khi qua lại Vũng Tàu và đến ngày hẹn, vợ chồng tôi và con trai đầu đi Vũng Tàu cùng với chú Tước, còn chú Phúc thì chưa đi, chỉ ở bên ngoài xem kết quả thế nào thôi. Trước khi đi tôi chỉ khóa cửa nhà lại và không hề hé môi cho gia đình tôi biết làm gì sợ lộ chuyện. Đến Vũng Tàu, chúng tôi ghé nhà chị Tư Cứu là người quen trước đây ở nông trường nghỉ ngơi, sau đó tôi và vợ tôi đi bộ ra phố Vũng Tàu cho quen đường. Khi đi ngang rạp hát Vũng Tàu, tôi dặn vợ tôi là nếu lỡ xảy ra chuyện gì đổ bể phải chạy trốn thì ra địa điểm rạp hát này để tìm gặp nhau, không thôi thì lạc mất, vì vợ tôi chưa đi Vũng Tàu bao giờ. Khi màn đêm buông xuống thì chúng tôi theo lời hẹn, đến một căn nhà khuất trong hẻm ở Bến Đình, ở đó chúng tôi thấy chú Tước đã đến rồi cùng với ba bốn người khách khác nữa. Khi đi vào hẻm, tôi để ý kỹ là có một đám cưới ở đầu ngõ rẽ để biết đường chạy trốn nếu bị công an bắt. 

Từ nơi đây còn cách hai ba căn nhà nữa là Bến Đình, nơi các tàu cá neo đậu để ra biển. Chúng tôi đợi một lúc, đến khi trời tối hẳn thì có chủ tàu hay người môi giới gì đó tới. Người ấy sau khi hỏi nhân số các thứ rồi bảo mỗi chúng tôi đều phải đưa vàng ra để anh ta xem là vàng thật hay giả, vợ tôi đưa ra cho anh ta xem trước, anh ta cầm vàng trên tay nhìn qua nhìn lại được một lúc rồi bảo: Mọi người thông cảm vì chuyến này chưa đủ người nên phải hồi lại. Vừa nghe thấy thế, vợ tôi nhanh như cắt chụp lấy số vàng trên tay hắn rồi ôm lấy con chạy như bay ra bên ngoài. Anh chàng ấy đứng dậy bảo rằng coi chừng, công an đang bao vây tất cả rồi. Tôi và chú Tước chặn hắn lại, không cho hắn đuổi theo vợ tôi, bảo rằng sao không báo trước, định lừa hay sao? Hắn la lên là công an tới làm chúng tôi chạy túa ra bên ngoài, tôi và chú Tước mỗi người một ngả. Tôi lần theo bóng đêm, lúc đi lúc chạy để tìm đường ra bên ngoài lộ, tới nhà có đám cưới là tôi yên tâm không bị lạc đường rồi, nhưng không thấy bóng dáng vợ con tôi đâu cả, như vậy một là vợ con tôi bị bắt, hai là đã thoát ra được và tìm đến rạp hát như tôi đã chỉ hồi chiều rồi. Lòng lo lắng như lửa đốt, vì thời ấy ở Vũng Tàu, chỉ cần thấy ai đeo đôi ba chỉ vàng trên tay mà đi vào vùng này thì cũng bị kẻ gian giết để cướp vàng, huống chi bọn chúng đã biết là vợ tôi đang giữ trong người 3 cây vàng?

Ra đến đường, tôi vừa đi vừa chạy tìm đến rạp hát rồi đứng đó chờ, chờ hơn một tiếng đồng hồ vẫn không thấy vợ con tôi đâu, tôi lo quá, đi về nhà chị Tư Cứu và cùng người em trai xách xe đạp đi tìm, mỗi người thủ sẵn một thứ vũ khí phòng thân, anh chàng ấy thì có con dao găm, còn tôi thì nhét cái bộ giò dĩa xe đạp cũ trong người, phòng khi đánh nhau cũng có đồ chơi. Tôi dẫn anh ấy đến khu nhà hồi chiều rồi tìm kiếm nhưng ngôi nhà ấy bây giờ đóng cửa tối om, chú Tước cũng chẳng thấy đâu. Tôi quay về và vòng đi vòng lại rạp hát cho đến khi rạp đóng cửa mà cũng không thấy bóng dáng vợ con mình đâu. Đên hôm ấy tôi không chợp mắt được tí nào, chỉ thao thức đợi đến sáng thử đi tìm lần nữa xem sao.

Sáng hôm sau, tôi quanh đi quẩn lại tìm cũng không thấy bóng dáng nàng đâu cả. Tôi quá thất vọng, rưng rưng nước mắt ra bến xe quay về, thế là hết rồi… Đang khi chờ xe thì tôi bỗng thấy từ xa, nàng đang ẵm con đi cùng một phụ nữ đến, chẳng có vẻ gì là lo lắng cả. Nhìn kỹ thì đó là chị Nga, chúng tôi có quen vì chị ấy là vợ của anh Tùng bạn tôi, hai vợ chồng thôi nhau nên chị về đây làm việc ở Trại chăn nuôi Vũng Tàu. Tôi quá mừng chạy lại ôm vợ ôm con và cám ơn chị ấy rối rít. Chị Nga ấy cho tôi biết là chúng tôi bị người ta lừa rồi, may mà không mất vàng. Xong chị ấy quay về để làm việc.

Thì ra đêm hôm qua, sau khi nghe nói vậy thì vợ tôi ôm con chạy ra ngoài một mạch, không để ý đến nhà đám cưới nữa, cứ thế mà đi, một lúc thì ra tới đường, vợ tôi lúc ấy sợ hãi quá nên quên cả lời tôi dặn là ghé rạp hát mà thuê xích lô bảo chạy thẳng tới nhà thờ Vũng Tàu, nàng vào thẳng gặp cha sở và thú thiệt sự việc như vậy, cha sở cũng hoảng hồn vì nếu có chuyện gì thì liên lụy đến cả nhà thờ vì công an giờ đó gắt lắm, kiếm cớ để quy chụp hòng khủng bố tôn giáo, cha bảo rất tiếc không chứa chấp con được, con có muốn thì cứ nghỉ tại hiên nhà thờ và coi như cha không biết gì cả. Vợ tôi ôm con ra ngồi ở hiên nhà xứ, được một lúc thì vợ tôi chợt nhớ ra là mình có một người bạn là chị Nga vợ anh Tùng, đang làm ở Công ty chăn nuôi gì đó ở Vũng Tàu, thế là vợ tôi lại ôm con ra kêu xích lô chở đến Trại chăn nuôi, anh xích lô hỏi trại chăn nuôi tên gì vì ở đây có rất nhiều trại chăn nuôi như vậy, vợ tôi bảo chắc là Trại chăn nuôi Vũng Tàu, anh cứ chở đến đó đi. Anh xích lô chở đến rồi quay đi mất vì trời lúc đó cũng là 9 giờ khuya rồi, vợ tôi bạo dạn đến trạm gác cổng hỏi thăm ở đây có ai tên Nga không, họ bảo là có và vợ tôi xin được gặp. Ơn Chúa, chị ấy nghe kêu thì bước ra đúng là chị Nga bạn của chúng tôi, và đêm ấy vợ tôi ở lại ngủ chung với chị Nga, sáng hôm sau ra bến xe và gặp được tôi. Đó lần vượt biên đầu tiên mà chúng tôi may mắn không bị bắt và cũng không bị mất mát gì. Chúng tôi về nhà và không hề có ai biết có chuyện gì xảy ra cả, qua hôm sau vẫn gởi con đi làm bình thường. Sau đó có dịp vợ tôi về Mỹ Tho và mang trả số vàng ấy lại cho mợ tôi. (TOP)

Chánh văn phòng

Bấy giờ, bác Mai Kỳ Châu là Chánh văn phòng kiêm Kế toán trưởng quá tuổi hưu đã lâu nên bác xin nghỉ, ông Nghĩa Giám đốc thấy tôi quen việc từ Kế toán Thống kê cho đến Báo cáo tổng hợp nên đề xuất với Ban Giám đốc Công ty Cao su Đồng Nai bố trí tôi thay thế bác ấy, hầu như tất cả thành viên trong Ban lãnh đạo Nông trường đều nhất trí điều này, vì qua gần hai năm tôi làm đủ các thứ việc trong nông trường và có trình độ văn hóa nữa, chỉ riêng có ông Võ là Phó Giám đốc Hành chánh thì không chịu, cứ nghi ngờ tôi, cho rằng sau 75 thì tôi 19 tuổi, vậy sao trước đó tôi không phải đi lính? Họ mời tôi lên đối chất, tôi đưa Thẻ sinh viên ra thì ông ấy vẫn không tin, cuối cùng tôi đưa cái giấy Động viên tại chỗ của sinh viên ra có giá trị đến 31/5/1975 ra thì ông ấy xem đi xem lại bảo, như vậy là tôi đã bị động viên rồi, mọi người cười ồ vì ông ấy không hiểu nghĩa Động viên tại chỗ là gì, phải giải thích cho ông ấy hiểu nghĩa là được miễn dịch vì lý do Học vấn thì lúc đó ông ấy mới tin, bởi ông ấy là dân miền Bắc vào, đã trình độ không có lại hay có thái độ nghi kỵ hung hăng dữ lắm. Sau đó thì Ban Giám đốc Công ty ra quyết định tôi làm quyền Trưởng Văn phòng kiêm Kế toán trưởng Nông trường thay thế cho bác Mai Kỳ Châu dưới sự sững sờ của mọi người trong Văn phòng hiện giờ, bởi trong Văn phòng có các nhân viên khác như cô Chớp, cô Nga, cô Hạnh và chú Ba Kho là những người đã làm nhân viên Văn phòng từ thời Pháp trước 75, thế mà tôi từ đâu về lại được bố trí làm sếp của họ như vậy, tuy họ không lộ vẻ ganh ghét vì họ biết rằng trình độ họ chắc chắn không bằng tôi, nhưng họ cũng hơi chưng hửng vì sao tôi lại tiến nhanh như vậy được, trong lúc tôi không hề có gốc gác cách mạng hay bà con thân thế gì với ai cả.

 Tôi được cử đi học khóa Kế toán trưởng tại Phòng Kế toán Công ty ở Suối Tre, tại đây tôi quen anh Niệm cũng là người dân Bình Ba làm kế toán ở đây đã lâu. Tôi được anh Tư Heo, chú Năm Lợi cùng mọi người hướng dẫn cho tôi các công việc cụ thể và tiếp thu cũng không khó khăn gì. Đó là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với dàn máy IBM của Mỹ, bởi ngày đó Việt Nam mới chỉ có 4 dàn máy như vậy, một của Bộ Giáo dục để chấm thi, một của Bộ Tổng Tham mưu Quân lực VNCH, một của hãng bia BGI và một của Công ty cao su SIPH của Pháp, là nơi tôi đang học. Thấy dàn máy vận hành mà phát mê, nó hoạt động theo kiểu bìa đục lỗ và chạy rất nhanh, từng miếng bìa sẽ được sắp xếp theo lỗ đã đục để mình biết dữ liệu trên ấy là gì, tựa như ngày nay chúng ta dùng hàm LOOK trên Excel vậy, tuy nhiên chỉ để cho biết IBM là gì thôi chứ về nông trường thì đâu có sử dụng đến, nông trường chỉ sử dụng máy tính quay tay Facit giống bàn máy đánh chữ, trên đó có số, mỗi lần nhập một dãy số thì quay cái cần lên một lần để nạp, rồi cộng hay trừ nhân chia thế nào tùy mình quay tới hay quay lui. Hồi làm nhân viên thống kê đội, mỗi lần cần tính toán gì nhiều thì tôi lên văn phòng mượn máy ngồi làm tại chỗ, do đó mà tôi tính bằng máy Facit nhanh không kém gì các nhân viên cũ. Sau 10 ngày học thì tôi đã nắm vững tất cả các kiến thức nên trở về Nông trường. Theo quyết định nên bác Mai Kỳ Châu chuẩn bị bàn giao toàn bộ công việc cho tôi.

Tôi và bác hai người mất mấy ngày bàn giao sổ sách các thứ, vì Văn phòng đây là quản lý không những phòng Kế toán nông trường thôi mà còn quản lý tất cả Kho Vật tư, các Thư ký Đội và cả Cơ xưởng Vận tải nữa, cơ số lên đến hơn ba chục người. Chúng tôi làm việc riêng trong phòng Giám đốc chỉ hai người với nhau trước, dưới sự chứng kiến của ông giám đốc. Qua kiểm tra, tôi phát hiện thấy bác bị thâm hụt tới mấy nghìn đồng, tương đương khoảng hơn hai cây vàng, tôi run lắm, nếu tôi cứ êm ru mà nhận biên bản bàn giao thì mình sẽ ôm sô hết mọi chuyện sao? Lúc đó thì tôi chợt khôn ra, đợi lúc chỉ còn riêng hai chúng tôi, tôi trình bày cho bác biết là từ bao năm nay bác đã làm sai như thế nào, khoản nào, kê ra rõ ràng cho bác biết chứ không ép bác phải nhận, nay con không thể nhận sổ quỹ các thứ được cho nên bác tính sao thì tính, bác nói nhỏ với tôi bảo dù sao bác làm ở đây mấy chục năm rồi, nay muốn nghỉ việc trong hiên ngang chứ đừng mắc lỗi lầm gì, bác sẽ nộp lại tiền đầy đủ, miễn sao đừng cho ai biết là được. Tôi hứa với bác là sẽ không bao giờ có ai biết chuyện này để giữ uy tín cho bác, và hôm sau bác nộp tiền lại cho thủ quỹ mà chị thủ quỹ cũng không hay biết gì, bởi ở đây ai cũng biết là bác rất giàu có, làm Chef Comptable mấy chục năm từ hồi Pháp tới giờ nên có rất nhiều của dư của để, số tiền ấy đối với mình là lớn nhưng đối với bác thì chẳng là bao. Tôi vẫn giữ lời hứa với bác mãi cho đến tận ngày nay, mặc dù bác qua đời cách đây gần 40 năm rồi. Bác thấy vậy thì quý tôi lắm, bác tặng tôi cuốn Tự điển Petit La Rousse quý báu của Pháp và đề tặng tôi, bảo tôi là một thanh niên rất ý nhị và tinh tế. Sau bao nhiêu thăng trầm cuộc đời, cuốn Từ điển ấy ngày nay tôi vẫn còn giữ như là một kỷ niệm đáng nhớ về bác. Sau đó Văn phòng làm tiệc chia tay bác vui vẻ, và kể từ ngày ấy, tôi chính thức làm Chánh Văn phòng kiêm Kế toán trưởng Nông trường lúc chỉ mới 24 tuổi, mỗi lần đi công tác đều có xe con chở tôi đi, nhưng khi về nhà thì tôi vẫn quẫy đôi thùng ra gánh nước cho vợ như dạo nào.

Trong thời gian này, nhân Công ty có mở Trường cấp 3 cho con em công nhân nên tôi làm đơn xin cho em út tôi vào theo học vì nó đã học xong lớp Chín, hàng tháng tôi phụ cấp cho nó thêm chút ít để mong nó hoàn tất được chương trình trung học hầu lớn lên có thể kiếm việc gì có tương lai hơn, khoảng đôi ba tháng nó lại về thăm nhà một lần, lúc này anh rể tôi đã qua đời, mẹ tôi đã bán cái rẫy dưới Suối Nghệ nên nó ở với tôi. Nó học cũng khá chăm và thỉnh thoảng mỗi lần tôi đi công tác trên công ty, tôi cũng thường ghé thăm nó. Ngày lễ nó nghỉ thì về nhà và cùng đi chơi với gia đình tôi nhân có dì Ánh là em ruột vợ tôi lên chơi. Thăm nhà xong, nó lại tiếp tục lên trường suốt cả mấy năm sau đó.

Ngay từ khi tôi nhận chức làm Kế toán trưởng thì năm đó đường lối hạch toán của công ty cũng thay đổi hẳn, thu nhập của công nhân tính khoán theo sản lượng, và mỗi người đều có sản lượng định mức riêng chứ không phải như trước kia thích thì làm nhiều ăn nhiều, không thích thì làm ít ăn ít nữa. Nông trường có thêm hai biên chế mới là nhân viên định mức lao động, anh Phú làm định mức bên Đội sản xuất cạo mủ, còn anh Cao làm định mức bên Chăm sóc vườn cây. Công việc mới nên tôi phải đề ra kế hoạch và tập huấn cho họ, tạo nhiều loại parem để có thể nhìn vào mà biết ngay kết quả, vì thế trong thời gian này, nông trường Bình Ba thường đứng nhất nhì Công ty về khoản duyệt lương kế toán, nhanh thì công nhân sớm có tiền lương nên họ phấn khởi lắm. Ông giám đốc cũng rất hài lòng về công việc của tôi, mỗi lần ông đi họp Công ty gặp người ta biểu dương nông trường nên quý tôi lắm, thân thiết như chú cháu vậy, và sự thân thiết này đã dạy cho tôi một bài học kinh nghiệm rất cay đắng về sau này tôi sẽ kể.

Nhận thấy công việc trơn tru chạy rất tốt, ông Năm Dũng là Bí thư Đảng ủy bảo tôi làm hồ sơ để kết nạp tôi vào đảng, vì hiện tại tôi cũng đã là phó bí thư đoàn rồi, tôi bảo mình là người Công giáo thì làm sao vào được? Ông nói thì mày cứ khai tôn giáo là Không, mày cứ giữ đạo trong lòng được rồi, đừng đến nhà thờ nữa là được, có vậy mới có cơ hội cho mày thăng tiến chứ. Tôi cười và đáp ngay mà không cần phải suy nghĩ: Không được đâu anh! Em còn phải lo ca đoàn nhà thờ các thứ, em không thể bỏ đức tin của em như thế được. Ông cảm thấy không lung lạc tôi được nên chỉ cười và bỏ đi, vì ý ông muốn trong Đảng ủy cần có người có học vấn chứ những người khác toàn dân lao động phu cạo mủ cao su ngày xưa thôi. Biết tôi không đồng ý nhưng sau này ông vẫn quý mến vui vẻ trò chuyện với tôi chứ chẳng có gì khúc mắc cả. Sau này tôi nghĩ vui, nếu ngày đó mà tôi ham lợi danh, chấp nhận bỏ Chúa theo đảng thì đến nay tôi có tuổi đảng ngang bằng với ông thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bây giờ không chừng, nhưng đừng hòng! Chẳng có thứ gì lung lạc Đức tin của tôi được.

Công việc cứ thế mà tiến triển tốt đẹp, tôi dành dụm tiền và mua được một chiếc xe đạp ba bánh cho con trai. Thái Toàn nó thích lắm, ngày đầu nó đạp còn lóng ngóng chứ vài hôm sau nó quen nên đạp vòng quanh nhà hí hửng lắm. Vì làm công việc ấy nên lương tôi cũng khá cao, lại có nhiều khoản phụ cấp khác như công tác phí nên nhà tôi sống cũng thoải mái. Đến tháng 11 năm ấy thì vợ tôi sinh con thứ hai, gần đến ngày sanh, mợ tôi lại kêu về Mỹ Tho sanh chứ không dám để vợ tôi sanh trên này, có đứa con trai đầu rồi nên đứa này chúng tôi không ước mong gì nữa, trai gái gì cũng được, ngờ đâu lại là con trai. Chúng tôi đặt tên nó là Hoàng Ân để tạ ơn Chúa, như là ân phúc của Ngài ban cho gia đình tôi. Tuy tên là vậy, nhưng bên ngoài chúng tôi gọi là Khoa, để ghép tên hai anh em thành Toàn Khoa, nghĩa là sống trong đời việc gì cũng phải biết. Thỉnh thoảng khi có dịp nông trường có xe đi Vũng Tàu công tác chẳng hạn, chúng tôi đưa gia đình đi chơi và tắm biển. Tôi lại có cái máy ảnh Canon cũ của cậu tôi để lại nên lâu lâu cũng vét tiền mua phim về chụp, mỗi lần như thế thì tốn kém lắm, nhưng cũng cố dành dụm để ghi lại những khoảnh khắc hạnh phúc của gia đình.

Qua năm sau thì công việc vẫn tiến triển tốt như vậy, sản lượng nông trường tháng nào cũng đạt vượt định mức nên thu nhập công nhân cao hơn. Bấy giờ ở Công ty, các phòng ban họ thấy tôi làm nhanh nhẹn và chính xác nên quý mến tôi lắm, nông trường tôi và nông trường Long Thành thay nhau dẫn đầu công ty nên anh Sáu Chi là Trưởng Văn phòng Long Thành cũng hay ghé nhà tôi chơi, các anh Tài chín ngón và anh Lộc ở Phòng Tổ chức rất thân với tôi, nói chung năm 1981 là năm thành công nhất của nông trường và cũng là với tôi. Vợ tôi cũng mừng nhưng nàng hơi lo lắng và trách móc tôi, vì có lần Thứ Tư Lễ Tro phải ăn chay mà hôm đó tôi tiếp mấy anh trên công ty về và đi nhậu với họ, tất nhiên là hôm sau tôi ăn chay bù lại nhưng vợ tôi vẫn cứ càu nhàu hoài.

Vợ tôi lại có tính hay ghen, bởi trong văn phòng có cô Hằng Nga nhỏ hơn tôi một tuổi, cũng khá là xinh đẹp và đỏng đảnh, cô ấy thấy tôi viết chữ đẹp nên bắt chước chữ của tôi y hệt làm vợ tôi nóng máu, tuy ngoài mặt thì không ai biết, nhưng vợ tôi để ý từng li từng tí làm tôi rất khổ tâm. Trong lúc tôi thì một lòng chung thủy với vợ thôi, vì nàng đã trải qua biết bao gian truân cùng mình nên không thương sao được, nhưng trong công việc, có khi tôi về hơi trễ một tí thì nàng lại đa nghi, một phần cũng vì cô ấy quý mến tôi và cứ giữ thái độ lửng lơ, ai nói gì thì nói, coi như không có chuyện gì xảy ra, giá như cô ấy ghét tôi thì êm chuyện rồi. Có 3 kế toán sổ lương, thì cô ấy lại làm đội có nhiều công nhân nhất nên cứ nạnh nẹ với nhau hoài, mà muốn công việc chạy thì cần phải làm nhanh và đồng bộ, do đó có một đôi lần tôi cũng phải bắt tay vào phụ với cô ấy thì mới hoàn thành kịp thời đi duyệt lương được, vì thế mà vợ tôi thấy vậy thì ghen và làm khổ tôi hoài, mãi đến ngày nay, trước mặt có Chúa chứng dám, tôi vẫn chưa hề làm gì sai trái với Chúa và với lòng mình cũng như với tình yêu của tôi đối với vợ tôi. Mãi về sau, khi nghe tin cô Nga ấy và anh Cao bạn tôi định cưới nhau thì vợ tôi mới thôi, song đám cưới hai người đó không thành vì bị trục trặc giao tiếp trước ngày cưới, bên này coi rẻ bên kia, khiến anh Cao bỏ ngang, không thành hôn với cô ấy nữa. (TOP)

Vượt biên lần thứ nhì

Qua năm 1982, công việc của tôi vẫn tiến triển bình thường, tuy nhiên nửa năm cuối thì sản lượng cao su không được như trước nữa, theo tôi đó là chuyện bình thường vì sức của cây cao su có hạn và tùy thuộc nhiều yếu tố thời tiết nữa, song thời đó còn bao cấp và quan liêu ghê lắm, cứ ra chỉ tiêu thi đua rồi giành giật với nhau để chiếm ngôi đầu bảng, thành ra nông trường nào cũng bị áp lực đè lên kế hoạch sản xuất. Cấp trên thấy không đạt sản lượng định mức thì viện đủ mọi lý do để tìm cách quy chụp. Bấy giờ, tôi cũng chán nên hai vợ chồng tìm cách vượt biên lần nữa.

Lần này thì tôi đã có hai đứa con nên phân vân ghê lắm, nhưng vợ tôi bảo anh và đứa con đầu là Cu Toàn cứ việc ra đi trước, còn em sẽ tính sau. Tôi về Mỹ Tho mấy lần và được biết người quen bên nhà vợ sắp tổ chức một chuyến đi vào tháng Bảy, vợ tôi về và chấp nhận đặt cọc trước 6 chỉ vàng cho tôi và con tôi, khi đi tới nơi thì bên này sẽ chồng đủ tiền. Tới ngày đi, chúng tôi chia tay trong hồi hộp và lo âu bịn rịn, chẳng biết khi nào gặp lại nhau, nhưng vợ tôi cứng cỏi lắm, nói anh cứ yên tâm mà đi, em ở nhà lo cho con được rồi. Chiều hôm ấy như đã hẹn, tôi và con tôi ra bến tàu phía sau chợ Hàng Bông rồi lên thuyền với những người khác, chạy ra khỏi thành phố Mỹ Tho, đến Bình Đức thì chuyển sang một thuyền khác to hơn. Tôi ngồi trên thuyền chỉ biết đọc kinh cầu nguyện cho gặp những điều tốt đẹp, lần này là người quen nên khá là tin tưởng. Thuyền đi nhanh trên sông Tiền, hướng thẳng về Cửa biển Trà Vinh, thời gian trôi qua chậm chạp và thuyền cứ thế mà đi cho đến tối, rồi đến đêm. Khoảng 1 giờ sáng, tôi nhìn xa xa thấy mấy ánh đèn của người giăng lưới thì mừng lắm, nghĩ rằng sắp tới cửa biển rồi, nhưng mãi vẫn chưa tới. Đột nhiên một lúc sau thuyền chạy chậm rồi dừng lại tấp vào bờ, họ bảo rằng bị động rồi, mọi người lên bờ tìm chỗ trú ẩn mau. Tôi hốt hoảng cõng con chạy thục mạng dọc theo bờ ruộng mà không biết đây là đâu, rồi tấp vào một vườn cây gần đó để trốn, còn những người khác chạy tán loạn nơi nào chẳng biết. Trông thấy ánh đèn lấp ló của một ngôi nhà gần đấy, tôi liền bạo gan xin vào và ơn Chúa, thật may cho tôi, dù khuya lắm rồi nhưng họ vẫn mở cửa và cho hai cha con tôi vào. Họ hỏi tôi vượt biên phải không? Tôi chỉ biết gật đầu chứ nói dối họ làm gì nữa. Bà chủ nhà bảo hai cha con tôi lên tấm phản mà nằm vì thấy cháu đã ngủ mê mệt trên vai tôi. Tôi nằm thao thức chứ không ngủ được, nghĩ rằng nếu giờ đó mà công an ập vào thì tôi có mà chạy đằng trời. Tuy nhiên, mọi sự an bình đến sáng, chỉ nghe tiếng súng nổ đâu đó ở phía xa xa mà thôi. Bà chủ nhà bảo chắc là yên rồi đó, cháu theo đường làng đi khoảng hai cây số thì ra đến chợ, từ chợ đi ra đường lộ cũng không bao xa nữa đâu. Tôi theo lời bà và ra đường lộ đón xe đò đi về Mỹ Tho trước sự sửng sốt của mọi người trong nhà vợ tôi. Hôm sau tôi lại phải lên Bình Ba sớm để làm việc kẻo mọi người nghi ngờ, còn vợ tôi sẽ lên sau. Quả nhiên, không ai ở Bình Ba biết việc ra đi của tôi, ngay cả mẹ và anh chị tôi cũng vậy, cứ nghĩ rằng tôi về Mỹ Tho chơi mà thôi.

Cho rằng của đi thay người thôi thì cũng được, mất 6 chỉ vàng thì chúng tôi cũng cố gắng trả được, nhưng không phải thế, sau này khi tôi còn kẹt phải ở nông trường làm việc không về được, thì họ lại kêu đi chuyến mà tôi đã đặt cọc rồi, nghĩ rằng họ không lừa mình nên gia đình vợ cho hai đứa em vợ tôi là Hằng và Hùng vào thay thế chỗ của tôi, và thật không may, chuyến đó bị công an bắt trọn, và hai đứa em vợ tôi bị bắt, điều sang Nhà tù Bến Tre ở tù mất 6 tháng, rõ ràng hai đứa đã ở tù thay tôi nên thương nó lắm, nếu tôi quay về đi lần nữa thì đã bị ở tù rồi chứ đâu phải chúng nó. (TOP)

Tủi nhục

Thời gian này như tôi đã kể, nông trường hụt sản lượng mà chú Tư Nghĩa giám đốc cứ bảo tôi ghi phiếu chi tiền sửa xe này, đại tu xe nọ xe kia, trong lúc quỹ đâu được phép chi như thế. Chú bảo thì cứ lập ra một cái quỹ gọi là Quỹ Tập Thể để chi dụng các phần này rồi xin Công ty hoàn lại sau, thực chất nó là một dạng quỹ đen, nhưng không phải của riêng tôi hay của giám đốc, mà vẫn minh bạch với chị Nguyệt thủ quỹ chứ không ai làm của riêng, tiền thu được do bán củi khô của nông trường, lâu lâu báo với công ty ít đi, trích lại một vài xe để làm quỹ. Tôi cũng thật sơ sót vì chú giám đốc tình nghĩa với tôi quá, chú bảo thì tôi làm chứ nếu tôi khôn thì tôi đã bắt buộc chú phải viết giấy ra lệnh cho tôi quyết định lập quỹ này rồi, nên về sau sai sót bị quy về cho tôi, còn các phiếu xuất củi thì đều do chú ký tên chứ tôi không ký. Số tiền thu được đó thì thủ quỹ giữ một số, tôi giữ một số và Phú là phó văn phòng cũng giữ một số, cuối tháng tổng kết gom lại giao cho thủ quỹ giữ để chi dụng linh tinh theo yêu cầu của giám đốc như tôi đã nói ở trên. Tôi có xin chú mua 4 cái máy tính cầm tay Casio để trang bị cho văn phòng cũng từ số tiền này. Anh chị em văn phòng có mấy cái máy tính này thì thích lắm, vì công việc tính toán sẽ nhanh hơn nhiều. Thời ấy được vậy là quý rồi vì đó là công nghệ mới, tuy rằng ngày nay cái Casio ấy rẻ òm, chẳng ai coi ra gì, học sinh đứa nào cũng có.

Thế rồi bất ngờ vào một ngày tháng Mười năm 1982, đội Thanh tra bảo vệ Công ty đột ngột xuất hiện và bảo tôi ngay chiều đó làm việc với họ, tôi nghĩ mình chẳng có gì mà phải lo nhưng anh chàng Thụy trong Ban Thanh tra lộ vẻ ác cảm với tôi lắm, bảo rằng tôi bàn giao công việc lại rồi hôm sau lên Phòng Thanh tra bảo vệ công ty làm việc ngay. Tôi hỏi có chuyện gì thì anh chàng ta hoạnh họe đủ điều nào là tôi lập quỹ sai nguyên tắc, lại âm mưu vượt biên, lại là người công giáo nên hay phản động lắm, thôi thì đủ cả, họ không cho tôi thanh minh gì, cứ việc lên Công ty làm việc rồi sẽ rõ. Hôm sau tôi đi và dặn vợ tôi là hiện tôi đang giữ một số tiền xe củi để trên hộc đầu giường, nên khi tôi đi rồi thì ở nhà đưa lên nộp cho nông trường ngay vì họ không cho tôi gặp mặt văn phòng, làm như tôi là tội phạm gì ghê gớm lắm không bằng. Hóa ra là vì tình hình nông trường sụt giảm sản lượng nên họ cần tìm một lý do nào đó để kết tội cho sự sụt giảm đó, và tôi là nạn nhân vì tôi không có gốc gác gì ở đây cả. Sau khi tôi đi, tôi nghe kể lại là vợ tôi đem tiền lên nộp thì Phú là phó văn phòng chối đây đẩy không nhận, vợ tôi tức quá nói toẹt ra hết là số tiền này anh cũng có giữ nữa mà chứ đâu phải chỉ riêng chồng tôi, với lại đây là tiền chung chứ ai chiếm làm của riêng đâu. Vợ tôi la lớn một hồi oang oang cả văn phòng khiến họ hoảng quá, phải nhận đem cất vào quỹ.

Tôi đi lên Công ty bình thường thôi chứ không bị bắt giữ gì. Đến nơi họ bảo tôi vào nhà khách Công ty nghỉ như những cán bộ khác, cơm nước thì xuống căn tin tự túc. Bạn bè tôi như anh Tài anh Lộc ở Phòng Tổ chức lấy làm lạ không hiểu sao một người giỏi và ngay thẳng như tôi mà lại bị bắt về đây, hằng ngày anh Lộc sau khi cơm trưa thì ghé đây ngủ trưa với tôi, anh Niệm bên Phòng Kế toán cũng ghé qua thăm tôi, hỏi tôi có bị ai đánh đập gì không. Tôi bảo không, và họ cứ để tôi ở không trong nhà khách như thế, chung với các cán bộ khác về Công ty công tác, trong đó có mấy anh cán bộ từ ngoài Bắc vào nữa, họ hỏi chuyện thì tôi kể lại, nghe vậy họ bảo thế thì không sao đâu. Đến ngày thứ ba thứ tư gì đó thì ban đêm, bảo vệ dựng tôi dậy, bắt lên phòng làm việc, và anh chàng Thụy ấy lại ra oai thấy ghê lắm, hù dọa tôi đủ điều và bảo tôi khai ra. Tôi chỉ nói những gì mình biết là việc ông giám đốc kêu tôi lập quỹ tập thể bằng tiền bán củi mà không có bằng chứng là lệnh viết tay của ông thôi, được bao nhiêu thì có thủ quỹ giữ, nhưng hắn ta mớm biết bao nhiêu điều sai trái khác để buộc tôi khai, nhưng có đâu mà khai? Hắn tức lắm, thiếu điều muốn nhảy xổ vào đánh tôi thôi, nhưng hắn không dám. Rồi hắn cũng thả tôi về phòng, và cứ đôi ba bữa lại như vậy, lại kêu lên ban đêm và tôi cũng chỉ biết thế thôi nên khai như vậy thôi chứ đâu có gì hơn. Sau này tôi mới biết, hắn tức quá đưa hồ sơ lên Công an tỉnh đòi truy tố tôi ra tòa nhưng ông Hai Cần là Trưởng Công an tỉnh coi qua hồ sơ thì bảo, việc sai trái này chỉ là vi phạm hành chính, Công ty cứ giải quyết nội bộ đi, chứ đâu phải hình sự mà đưa lên công an làm gì? Tôi biết chuyện này là vì về sau, bà Tư Lan là vợ ông Hai Cần kể là ông ấy hỏi thăm và kể chuyện này cho bà nghe, bút phê vào đầu hồ sơ như vậy.

Tên Thụy ấy tức lắm, không hại tôi được liền quay về, lâu lâu lại hù dọa và cứ để yên tôi ở nhà khách không cho tôi về, hơn một tháng trời tôi cứ ở không vậy, họ cứ để tôi tự do và không ai đoái hoài đến, thậm chí ngày Chúa nhật hằng tuần tôi còn đi xuống Nhà thờ An Lộc xem lễ mà không ai nói gì, rồi có khi ghé nhà anh Tài chín ngón ăn cơm nữa. Thế rồi Đoàn ủy Công ty và Công đoàn qua chơi thấy tôi rảnh quá nên đem bút giấy màu qua nhờ tôi vẽ báo tường và trang trí cho họ nữa. Lúc này, cậu tôi đã học tập cải tạo về, nghe tôi bị đưa đi vậy thì hốt hoảng lên thăm tôi, cậu tôi lo lắm vì cũng đã từng ở tù mà, nhưng thấy tôi bình thường, cùng cậu đi ra căn tin ăn cơm như những người khách khác thì yên tâm đôi chút, chỉ không biết khi nào mới được về nhà thôi. Cậu tôi cho tôi ít tiền rồi đi về.

Thực sự thì lúc ấy tôi cũng rất sợ và rất nản, vì mình cô thân cô thế, không có ai để bám víu, tuy nhiên tôi nghĩ nếu mình có tội thì cũng chỉ là tội đã làm sai theo lệnh Giám đốc chứ tôi không tư lợi gì mà sợ. Những ngày ấy tôi lại nhận thêm tin buồn là em tôi sau khi khúc mắc với những thành phần lưu manh trong trường, nó đánh nhau với bọn ấy và nghe tin tôi bị thất thế nên nó ghé thăm tôi rồi bỏ học quay về. Tình cảnh tôi bấy giờ không biết làm sao khuyên nó nữa, đành cúi đầu chấp nhận số phận. Và rồi thấy giữ tôi lâu quá, tôi bèn lên gặp thẳng ông Trưởng phòng là ông Hai Trọng bảo rằng tôi tội gì mà sao giữ tôi lâu vậy? Ông nhìn tôi rồi bảo: Hóa ra giờ này mà vẫn còn ở đây à, tao tưởng vụ này xong lâu rồi chứ. Thì ra tên Thụy ấy căm ghét tôi nên cứ lờ đi, bây giờ nghe ông trưởng phòng ra lệnh nên mới cho tôi về, nhưng hắn đe là về nhà không được đi đâu mà phải ở yên đấy chờ quyết định của Công ty, hắn làm như tôi tội nặng quá nên bỏ trốn không bằng.

Tôi về nhà thấy con mình hai đứa ngồi bệt dưới đất chơi mà thương đứt ruột. Hóa ra từ ngày tôi đi, ở nhà họ hù vợ tôi là tôi bị bắt bị kỷ luật kiểm điểm như thế thì họ sẽ lấy lại nhà, do vậy mà vợ tôi phải nhượng lại ngôi nhà cho anh Sáng ở gần đó với giá 2 chỉ vàng rồi qua nhà anh Sáng ở tạm đợi tôi về, công việc thì họ không cho vợ tôi làm thư ký nữa mà điều ra làm lao động phổ thông, đi phát cỏ vườn cây, lúc đó vợ tôi đang mang thai đứa con thứ ba nên gian nan lắm. Nhìn vợ con như thế, tôi đau lòng không thể tả, nhưng lúc ấy biết làm sao được, một phần lỗi cũng do mình không cứng rắn với ông giám đốc khi biết ông làm sai. Không khí nông trường có vẻ u ám lắm, vì Bảo vệ Công ty về làm mưa làm gió nên họ ghét, chứ những anh em nhân viên văn phòng ngoài Phú ra thì ai cũng có thiện cảm với tôi, bởi Phú nghĩ rằng nếu tôi bị kỷ luật thì Phú sẽ lên thay tôi, nhưng Phú đã lầm vì sau khi thay tôi được mấy tháng thì Phú cũng bị kỷ luật vì tội tham ô khác và bị cho nghỉ việc như tôi vậy, người về thay là anh Phiên, cũng là một người có gốc gác ngoài Bắc, nghe đâu là đã từng đi bộ đội. Sau này số phận anh chàng Phiên cũng chẳng khác gì tôi, và tội còn nặng hơn nữa, phải nghỉ việc đi làm rẫy.

Về được hai hôm thì họ kêu tôi ra họp ngoài hội trường, giống như một hình thức đấu tố, kêu tôi đứng lên khai rồi họ đọc một tràng luận tội vô cùng lãng xẹt, cho rằng do tôi làm sai nên bây giờ Nông trường bị hụt sản lượng, quy tội tôi là thông đồng với giám đốc lập quỹ tập thể bằng cách bán củi, rồi tự mua sắm máy tính cho văn phòng mà không trình công ty, thậm chí ba cái chuyện vặt vãnh như tự ý xuất mấy cái bánh trung thu còn dư dưới kho đã quá hạn lên cho văn phòng ăn cũng quy thành tội..., rốt cuộc quyết định tôi bị buộc thôi việc vì “có dấu hiệu” tham ô, mà dấu hiệu gì, tham ô như thế nào? thâm lạm bao nhiêu tiền thì họ không nói, vì có đâu mà nói? nông trường có mất đồng nào đâu mà đòi? Tôi chỉ là một con chốt thí để họ đổ tội cho việc nông trường hụt sản lượng chứ chẳng tìm ra tội gì của tôi cả. Một điều rất đáng buồn là tôi nghe chị Thủ quỹ kể lại, trong lúc họ mời tôi lên Công ty kiểm điểm thì ở Nông trường, Thanh tra cũng làm việc với ông Giám đốc và Phó Giám đốc về sự việc bán củi làm Quỹ tập thể, cả hai ông đều chối đây đẩy là không biết, đổ vấy hết cho tôi. Tuy vậy, Công ty cũng kỷ luật cả họ, vì dù chối nhưng Ông Nghĩa Giám đốc vẫn bị giáng chức, chuyển về làm Phó Giám đốc Nông trường Cẩm Đường, còn ông Ba Hoài Phó Giám đốc vườn cây cũng bị giáng chức, về làm Đội trưởng Đội sản xuất. Đó cũng là một bài học kinh nghiệm cho tôi về niềm tin và cả về lòng người, khi gian nan mới biết gia đình vợ con mình mới là cứu cánh thôi. Còn anh chàng Thụy hung hăng ấy về sau tôi nghe nói là mấy tháng sau vụ việc của tôi cũng bị đuổi, đi về làm công ở tiệm sạc bình sửa xe tại Long Khánh. (TOP)

Về Mỹ Tho mua bán giấy

Cố gắng nén sự tủi nhục đó quên đi để mà sống, sau Noel năm ấy, vợ tôi bàn với tôi là bây giờ ở đây cũng chẳng được gì, thôi thì anh với em về nương náu tạm ở nhà cậu mợ vậy, về dưới anh có thể mua bán cùng em kiếm sống được, chứ ở trên này bọn bảo vệ hù dọa đì mình thì mình cũng khốn khổ với tụi nó. Thế là vợ tôi xin nghỉ việc và chúng tôi dọn ba thứ lặt vặt rồi chuyển về Mỹ Tho. Tính tôi lúc nào cũng thích tự lực chứ chẳng muốn cậy nhờ ai, nhưng hoàn cảnh này thì đành phải chấp nhận chịu ở nhà vợ thôi. Cậu mợ tôi thấy vậy cũng buồn cho tôi lắm, nhưng cũng mừng vì tôi không bị tù tội gì. Hai hôm sau thì chúng tôi ra đường Lê Đại Hành thuê một cái chái nhà mặt tiền, trưng một bảng nhỏ là Mua giấy, chúng tôi mua tất cả các loại giấy đã sử dụng đã bỏ đi như giấy báo, giấy tập học trò, giấy hồ sơ, giấy sách cũ, tùy theo từng loại mà phân ra, rồi đem ra chợ bỏ sỉ cho các sạp hàng tạp hóa. Ban đầu tôi tưởng như thế thì chẳng khác gì ve chai, nhưng tôi lầm, vì lúc mới mở thì mua được ít lắm, nhưng sau thì có những mối bán rất nhiều, người ta bán hàng chục hàng trăm kí, giấy tập, giấy báo, giấy sách cũ thôi thì đủ cả, mình cứ phân loại rồi cột từng chồng 5 kg chở ra cho mợ tôi ngoài chợ và các mối khác đến lấy đem về bán cho người ta gói đồ. 

Tết năm ấy cũng tạm ổn, tuy buồn vì đây là cái tết đầu tiên và duy nhất trong đời tôi phải đón giao thừa bên nhà vợ, nhưng phận mình như vậy thì biết làm sao bây giờ? Công việc mua bán giấy dần dần ổn định, chúng tôi cũng kiếm được thu nhập qua ngày, tuy nhiên gian khó lại chồng gian khó, một lần nọ, tôi đưa mấy đứa con qua Bến Tre thăm nhà chị vợ tôi thì lúc về, con trai thứ hai của tôi là Khoa bị sốt xuất huyết nặng, cháu bị hôn mê và trụy tim mạch luôn, chúng tôi phải đưa cháu vào bệnh viện, thời ấy thuốc men khan hiếm và đang trong dịch sốt xuất huyết cả tỉnh nên con cái người ta chết vô số kể, cháu này chết mang ra thì con tôi điền vào nằm chỗ đó, hai đứa một giường, thuốc men không có, chỉ thấy truyền Natri Clorur thì không thấm béo gì cả, nên tôi xin bác sĩ cho mua thuốc ngoài chợ đen, bác sĩ không chịu vì họ có một đường dây buôn bán thuốc, ca trực người nào thì người ấy định liệu. Thấy con mình nguy cấp quá, chúng tôi phải nhờ thím Trường là thím của vợ tôi, quen một bác sĩ và nhờ bác sĩ ấy can thiệp cho mua, mua một chai dịch Ringer Lactate màu vàng của Pháp để truyền mà phải trả một chỉ rưỡi vàng, và cũng nhờ truyền được chai dịch ấy mà con tôi khỏe mạnh, có thể tự đứng lên đi tiểu tiện được rồi. Mọi người trong phòng cấp cứu kinh ngạc lắm, hỏi thăm tôi nhờ đâu vậy, tôi chỉ cách cho họ nhưng không biết họ có chạy chọt được không mà thấy các bé chết nhiều quá. Cùng giường với con tôi là một bé gái cũng trụy tim mạch như con tôi, tôi thấy chắc chẳng còn gì cứu vãn nổi, bà mẹ ngồi khóc chẳng biết làm gì. Tôi muốn rửa tội cho cháu bé thử xem có phép lạ nào xảy ra để cho cháu ấy sống lại được không, bèn nói với chị ấy: Chị ơi, tôi thấy cháu chắc là không qua được, vậy chị cho tôi làm cái dấu này, nếu ơn phước của cháu còn thì cháu khỏe dậy, còn nếu không thì cũng đành chịu để cháu ra đi bình an nhé. Chị ấy vừa khóc vừa gật đầu bằng lòng. Tôi đọc kinh và làm phép rửa tội cho bé gái đó, xin Chúa cho cháu được khỏe lại vì vinh quang của Chúa, cũng là muốn cho mọi người thấy được thì sẽ tin tưởng vào Thiên Chúa nhiều hơn, nhưng số phận đã định sẵn rồi, cháu vẫn không tỉnh lại và một lúc sau ra đi trong an bình. Người ta mang xác cháu ấy đi và đưa cháu khác vào nằm thế chỗ.

Ba ngày sau thì Khoa được xuất viện, lúc ấy vợ tôi cũng đã gần đến ngày sinh đứa con thứ ba nên tôi phải làm việc nhiều hơn, cứ cách vài ngày thì buổi sáng sớm tôi lên Chợ Lớn vào mấy sạp của người Hoa mua giấy báo, toàn là giấy báo Nhân dân mới toanh, ngày nào có hàng là tôi cũng mua mấy chục ký, có lúc mua được cả tạ trưa chở xe đò về, họ cứ đóng gói thành từng cục 10 kg tôi mua đem về phân phối cho ngoài chợ kiếm tí tiền lời, công việc cứ đều đặn như vậy, buổi chiều thì ngồi tại chỗ tôi thuê, mua của những người khách lẻ, có lúc thầy cô giáo ở trường đem bán sách cũ cho chúng tôi vài trăm ký là thường, nhưng loại sách cũ này rất dễ bị Quản lý thị trường bắt, vì họ cho là tôi mua sách đang sử dụng, cho nên phải cẩn thận, mua được nhiều thì phải đem giấu đi, nếu bị bắt thì lỗ to. Thời ấy loại giấy trắng trong tuyển tập Lênin là có giá nhất, vì họ mua về để quấn cà rem cây, mua được thì lãi nhiều song nếu bị bắt là có thể ở tù vì họ có thể quy mình về tội chính trị rất nguy hiểm, nhưng mua được thì vẫn cứ liều mà mua, vì cuộc sống mà.

Vợ tôi đã gần đến ngày sinh, chúng tôi mong ước sinh được con gái vì đã có hai con trai rồi. Tới ngày chuyển dạ, tôi lấy xe đạp chở vợ tôi vào nhà bảo sanh Phường 1 ngồi đợi, một lúc sau thì mợ tôi vào, tôi tranh thủ chạy đi mua cho vợ tôi tô phở và ly cà phê sữa đá để lấy sức, sau khi ăn xong thì vợ tôi lên bàn sinh, mợ tôi bảo tôi cứ về tiệm mua giấy đi, để đó mợ tôi lo, tôi quay về được một lúc thì chạy vào, thấy vợ tôi sinh ra một bé gái bụ bẫm và dễ thương, tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng tôi được như ý và vợ tôi vượt cạn bình an. Chúng tôi đặt tên cháu là Minh Phúc, vì trong hoàn cảnh khó khăn từ ngày nó hoài thai trong bụng mẹ cho đến ngày nó chào đời, bao nhiêu gian truân đổ ập trên đầu chúng tôi mà chúng tôi vẫn vượt qua được để tồn tại, đó là nhờ ơn phúc của Chúa thôi chứ là gì nữa? với lại tên ba anh em gộp lại thì sẽ là Toàn Ân Phúc, mong cho gia đình tôi được toàn ân phúc Chúa ban là thế. Sau khi sinh được ít ngày thì mẹ tôi lúc ấy đang ở với chị kế tôi ở trường, có đến thăm cháu và cũng có mang ít cá bống kho tới cho vợ tôi chứ mẹ và chị tôi lúc ấy cũng rất cực khổ.

Ngày đầy tháng của Minh Phúc con gái tôi, tuy nghèo nhưng tôi cũng làm một con gà trống lớn nấu cà ri để mừng cháu, đúng ngày ấy thì có anh Niệm, là người trước đây tôi đã kể, làm cán bộ Phòng Kế toán Công ty lúc tôi đi học Kế toán, anh đi công tác ở Bến Tre rồi sẵn mang hai bao giấy lớn của Công ty bỏ đi đem đến cho tôi, vì trước đó tôi vẫn thư từ với anh nên anh biết tôi đang mua bán giấy ở Mỹ Tho, anh đem hai bao giấy gần 1 tạ đến bán và sẵn thăm tôi luôn. Tôi mừng quá và mời anh vào ăn đầy tháng con tôi. Trong số anh em bạn bè, chỉ có anh là người hiểu tôi nhiều nhất, lúc tôi bị kiểm điểm tại nhà khách anh cũng không ngại mang tiếng mà cứ đến thăm tôi, trong lúc những người khác như Phú là phó văn phòng, lên Công ty thấy tôi cũng lờ đi làm như không quen vậy. Riêng anh thì về sau này cũng thế, dù trong hoàn cảnh nào chúng tôi cũng quý mến nhau như vậy. Biết được cuộc sống tôi cũng khá ổn định nên anh cũng mừng, lúc ấy tôi mua được nhiều giấy lắm, tôi chỉ cho anh xem tính ra phải hơn 2 tấn giấy các loại, vừa giấy sách cũ vừa giấy trắng Lênin, chất đầy nhà cao tới tận nóc. Hai người hàn huyên nhau một lúc rồi anh quay về theo xe của Công ty, tôi lại tiếp tục công việc mua bán giấy như thường lệ.

Chỉ một hai ngày sau đầy tháng bé Phúc, lúc tôi đang ngồi ở tiệm mua giấy thì cậu tôi từ trong nhà chạy ra hớt hãi bảo: Thôi chết rồi con ơi, quản lý thị trường họ vào nhà bắt hốt hết giấy rồi. Cậu tôi không những lo vì mất giấy mà còn lo bị tù tội vì trong nhà còn có giấy trắng Lênin nữa. Tôi hốt hoảng chạy về thì thấy Quản lý thị trường thuê mấy xe ba gác đến chở giấy của tôi đi, họ bảo rằng tôi vi phạm tội buôn bán sách, tôi trình bày đó là sách cũ các trường bỏ đi để thay sách mới nên họ bán cho tôi như giấy cũ vậy, nhưng họ nhất quyết không chịu, tịch thu tất cả mang về phường, cũng thật là trong cái rủi có cái may, toàn bộ sách trắng Lênin đều giấu dưới giường vợ tôi đang nằm và một số khác giấu trong toilet, thấy vợ tôi mới sinh ngồi trên giường nên họ không cúi xuống khám xét dưới gầm giường, chứ nếu mà tìm thấy thì chắc chắn tôi bị đi tù rồi. Thì ra không phải Quản lý thị trường cố ý đến xét nhà cậu mợ tôi, mà họ xét nhà kế bên buôn lậu bột mì, nhà kế bên lại có đường thông qua bên bếp nhà tôi nên mấy người đó đem bột mì qua giấu bên bếp nhà cậu mợ tôi, do đó mà họ sẵn kiểm tra luôn và hốt sạch bột mì của người đó và gần 2 tấn giấy của tôi, biết bao nhiêu công sức và tiền bạc đổ vào đó, nay coi như trắng tay, may là không bị bắt ở tù vì giấy trắng kia. Chúng tôi ra phường kiện mấy cũng không được vì thời điểm đó rất là tăm tối, quan liêu bao cấp, và họ ngang nhiên bán đi chia nhau mà mình cũng chẳng làm được gì. Sau này mấy người buôn lậu bột mì kế bên thấy chúng tôi vì họ mà thiệt hại như vậy thì có đền bù cho chúng tôi một ít, nhưng cũng chẳng thấm vào đâu, bao nhiêu vốn liếng coi như mất sạch, chúng tôi phải làm lại từ đầu.

Lúc đó tôi nghe tin là Phòng Giáo dục trên Bà Rịa hiện đang rất thiếu giáo viên nên đang tuyển những người có trình độ lớp Mười trở lên, đem đi đào tạo ở lớp Sư Phạm Cấp tốc tại Đồng Nai để về dạy học. Vợ chồng tôi đều có bằng Tú tài nên đủ điều kiện lắm rồi, nên tôi làm hồ sơ cho cả hai vợ chồng và nộp đơn vào cùng với hai đứa em tôi, mong cho có một cuộc sống ổn định, nhưng cái rủi vẫn chưa chịu buông tha chúng tôi, đúng ngày họ kêu nhập học, lúc con gái Minh Phúc của tôi được 3 tháng thì cháu bệnh nặng, cái thóp trên đỉnh đầu mỏng quá, mỗi lần thở là phồng lên xẹp xuống, cháu bị ho và sốt nhiều, chúng tôi đưa vào bệnh viện thì họ nói tình hình nguy kịch quá, phải chuyển lên Bệnh viện Nhi đồng gấp vì họ chẩn đoán là viêm màng não, chúng tôi thấy bầu trời như sụp xuống vì cháu nó sinh ra dễ thương thế mà sao lại mắc bệnh hiểm nghèo như vậy? Và thế là việc đi học sư phạm của chúng tôi đành phải hủy bỏ, chỉ còn hai đứa em tôi đi học thôi. Vợ chồng tôi mang cháu ra bến xe, mợ tôi vừa mếu máo vừa đưa cho chúng tôi cái nhẫn 2 chỉ vàng, bảo rằng để chạy chữa cho cháu, và nếu không chạy chữa được thì cũng có tiền thuê xe mang cháu về, vì bệnh này mười phần chết hết chín.

Đến Bệnh viện Nhi đồng 1 thì họ cho cháu nằm ở khu Nhiễm là khu cách ly vì bệnh Viêm màng não là một loại bệnh hay lây và có tỷ lệ tử vong rất cao. Đêm hôm đó họ có tới khám và hẹn sáng hôm sau phải đi chọc tủy để lấy tủy sống mang đi xét nghiệm, đêm hôm đó cháu sốt dữ dội và ho nhiều, chúng tôi chỉ biết ngồi nhìn cháu mà lòng như lửa đốt, chúng tôi đọc kinh cầu nguyện và lòng tự nhủ: Chúa ơi, chẳng lẽ Chúa để cho một đứa bé xinh xắn dễ thương như thế này chết trước mặt con sao? Cháu nó có tội tình gì? Chúng tôi vừa khóc vừa tự trấn an mình và hy vọng Chúa sẽ nhận lời cầu xin, và quả nhiên, cháu vẫn tồn tại qua đêm hôm ấy chứ chưa ra đi. Sáng hôm sau họ đưa bé Phúc con tôi vào phòng lấy tủy mà không cho chúng tôi đi theo, chúng tôi đứng bên ngoài chỉ biết nhìn qua cánh cửa mờ, nghe tiếng con khóc thét mà nước mắt trào ra cả hai vợ chồng, được một lúc thì họ chuyển cháu ra khi cháu vẫn còn khóc nấc, mắt nhắm nghiền và vẫn sốt mê man, vết thóp trên đầu vẫn sưng lên chứ chưa có dấu hiệu giảm bớt. Hai chúng tôi hồi hộp chờ chiều mới có kết quả xét nghiệm là có phải bị viêm màng não hay không. Tôi nhìn phía sau lưng có một vết băng ngay cột sống, hỏi ra thì mới biết khi lấy tủy, người ta phải co ép người cháu lại cong như con tôm rồi mới chọc cây kim lớn vào giữa hai khe đốt sống mới hút tủy ra để xét nghiệm được, hèn chi con tôi khóc thét lên là phải. Đau lòng vô cùng nhưng biết tính sao bây giờ, chỉ biết cậy trông vào Chúa thôi.

Đến chiều thì họ cho chúng tôi biết kết quả, ơn Chúa, cháu không phải bị viêm màng não mà bị viêm phổi thôi, phổi bị viêm làm cho cái thóp trên đầu sưng lên và sốt, họ cho thuốc uống và đêm hôm ấy cháu đã hạ sốt, có thể mở mắt ra nhìn được rồi. Hai hôm sau thì cháu khỏe lại và cái thóp cũng bớt sưng do đã hạ sốt, cháu đã bú lại bình thường. Thấy vậy, chúng tôi xin phép xuất viện chứ trong phòng dày đặc các trẻ em bị bệnh nên dễ bị lây nhiễm lắm, vả lại hệ thống vệ sinh trong bệnh viện quá kém nên càng ở lâu càng lo lắng thêm. Chúng tôi đưa cháu về lại Mỹ Tho và mấy ngày sau thì khỏi bệnh hẳn. Tạ ơn Chúa vì đã cho cháu qua cơn nguy kịch nên tôi cũng chẳng tiếc gì khóa học Sư phạm nữa. (TOP)

Quay lại Bình Ba

Thấy tình cảnh gian nan như vậy nên tôi bàn với vợ tôi, thôi thì vinh quang cũng đã vinh quang rồi, tủi nhục thì cũng đã tủi nhục rồi, mình ở đây khí hậu và nguồn nước sinh hoạt không phù hợp với các con làm chúng bệnh hoài, nên phải quay trở lại Bình Ba thôi, kiếm việc gì đó làm sống qua ngày cũng được. Vợ tôi đồng ý và xin phép cậu mợ cho chúng con quay lại trên ấy. Cậu mợ tôi thấy vậy cũng phải đồng ý theo quyết định của chúng tôi thôi. Tôi hỏi chị kế tôi thì biết rằng gia đình mợ Mai bạn của chị tôi hay có chuyến xe tải lên vùng đó chở hàng về, khi đi thì lên xe không, khi về mới chở hàng, thế nên tôi xin cho gia đình tôi quá giang lên Bà Rịa rồi đến nhà mẹ tôi luôn. Lúc ấy, chị cả tôi và anh tôi đã bán ngôi nhà xây, ra dựng một ngôi nhà lá ở kế bên Ủy Ban xã, đồng thời chị kế tôi cũng làm một căn nhà lá kế bên cho mẹ tôi và các em nữa, còn anh tôi thì dựng một căn nhà lá dưới lô cao su.

Vài hôm sau thì có chuyến xe về Bà Rịa, sáng sớm hôm ấy, chúng tôi dọn đồ lên sau thùng xe tải và cả gia đình ngồi sau đó luôn, mà đồ đạc thì có cái gì đâu? Chúng tôi đổi cái giường nhỏ lại cho mợ tôi lấy cái giường lớn mang theo, một ít soong nồi, áo quần, cây đàn guitar cũ và chiếc xe đạp thôi. Nhìn ba đứa con mà thương đứt ruột, bé Phúc mới được ba bốn tháng quấn cái mền nằm trên thùng xe, Toàn và Khoa thì hết ngồi lại ngủ giữa trời nắng, bây giờ ngồi nhớ lại viết những dòng này mà trào nước mắt, sao chúng tôi lại khốn khổ như thế được? Cuộc đời tôi có làm điều gì gian ác đâu mà phải chịu như vậy? nhưng lòng tự nhủ lòng, có khổ mấy cũng phải ráng vượt qua vì không còn cách nào khác, chứ mình cô thân cô thế, gia đình lại nghèo, vốn liếng mất sạch, chỉ còn mượn mợ tôi 2 chỉ vàng mang theo thôi. Xe chạy một mạch đến chiều thì tới nơi, chúng tôi dọn đồ xuống ở tạm nhà mẹ tôi rồi nấu cơm nước cho các con ăn. Sáng hôm sau tôi đi tìm nhà, rất may là sau khi tôi bị kiểm điểm, chỉ vài ba người trên văn phòng là vẫn còn ganh ghét với tôi vì họ còn ham cạnh tranh chức vụ thôi, chứ hầu hết công nhân, tổ trưởng, bạn bè vẫn đối với tôi quý mến như cũ, hình như họ thương hại tôi thì đúng hơn, dân làng họ đối với tôi cũng thương cảm lắm, sẵn lòng giúp đỡ khi cần chứ họ chẳng ngại gì. Tôi xuống gặp chị Hợi, chị có một cái quán nhỏ ngày xưa đứa cháu chị về bán cà phê, nay đã nghỉ nên bỏ không, tôi nói chị cho tôi thuê lại để đưa gia đình xuống ở, anh chị đồng ý ngay và không lấy tiền thuê nhà, cho chúng tôi ở không để qua cơn hoạn nạn này, thì ra vẫn còn người thương chúng tôi. Chúng tôi mừng quá và chỉ sau một đêm ngủ lại nhà mẹ tôi, chúng tôi dọn xuống dưới cái quán, sắp xếp cái giường để phía sau cạnh cái bếp để cho vợ con tôi nằm, còn phía trước và cái hiên dự định sẽ mở quán bán cà phê lại. Bạn bè tôi thấy tôi về thì cũng mừng lắm, anh Tường trước là hiệu trưởng trong Xuân Sơn, Long là tổ trưởng nay đã là Phó Văn phòng và những người anh em khác, động viên tôi cứ sống ở đây đi, chứ chuyện của anh thì ai cũng biết là anh chỉ có lỗi thôi chứ đâu có tội, có điều vì tình hình xã hội lúc ấy quan liêu bao cấp quá nên anh chỉ là nạn nhân mà thôi.

Rất may là trong quán của chị cũng vẫn còn một số bàn ghế, ly tách và phin lọc chị cũng cho tôi mượn luôn, do đó mà tôi dự định sửa sang vài ngày rồi mở quán cà phê bán luôn. Tôi hỏi thăm thì biết có cà phê của anh Sáu Đông ở Long Khánh tuy giá hơi cao hơn một chút nhưng rất ngon, cho nên tôi mua về pha bán cho khách. Những ngày đầu chưa quen nên khách chỉ lai rai, nhưng về sau khách đông dần và tôi cũng sống được, ai cũng khen cà phê ở đây ngon. Cứ mỗi tối nếu nông trường có hội chợ về thì vợ tôi mua bánh mì về bán, cũng chẳng còn mắc cỡ gì nữa khi các cô văn phòng tới mua bánh mì ăn, vì cuộc sống mà, tuy rằng ngẫm lại cũng thấy tủi nhục cho mình lắm, nhưng vì mình lao động chân chính bằng chính sức mình nên không có gì ngại cả, không còn bị lệ thuộc bởi ông đảng ủy hay ông lãnh đạo nào nữa.

Tết năm Giáp Tý 1984 rồi cũng qua đi, hai vợ chồng ba đứa con tuy trải qua biết bao gian truân thì nay cũng đã được đón một cái tết ở nhà riêng, cũng mua sắm bánh mứt các thứ, cũng mặc đồ đàng hoàng đi lễ nhà thờ như bao người. Lúc này ngoài giờ bán hàng ra thì tôi cũng buồn chán nên hay nhậu nhẹt với bạn bè, do đó mà vợ tôi buồn lắm, cãi nhau với tôi hoài, thậm chí còn viết đơn ly hôn nhưng chẳng ai chịu ký cả, vì tuy giận nhau nhưng vẫn yêu thương nhau, làm sao bỏ được? Thế rồi bão táp cũng qua, vợ tôi thấy nếu cứ như vậy cũng không khá nổi nên chúng tôi đành phải hy sinh, xa nhau mỗi người một nơi, tôi ở Bình Ba bán cà phê, còn vợ tôi lại quay về Mỹ Tho buôn bán, mang theo bé Phúc vì nó còn nhỏ quá, đành phải chấp nhận giải pháp đó thôi. Vợ tôi mang con quay về và tôi cùng hai đứa con trai ở lại bán quán sống qua ngày.

Quán mỗi lúc một đông khách nên tôi phải nhờ em gái tôi qua phụ, lúc này hai em tôi đã học xong khóa sư phạm cấp tốc và đã đi dạy học rồi. Sáng nó qua sớm phụ bán với tôi một lúc rồi về đi dạy, còn tôi lo việc hàng ngày. Không có vợ kề bên nên tôi nhậu nhẹt nhiều hơn khiến em tôi nó hăm nếu anh mà nhậu nhiều quá thì em không qua phụ nữa đâu. Tôi cũng hoảng nên bớt nhậu lại mà lo cho con, nhưng nhà nghèo nên hai đứa tội lắm, cho gì cũng ăn, áo quần sao cũng được, cứ tối về là nằm lăn ra ngủ thấy thương ghê lắm. Chăm sóc nó bình thường thì không sao, nhưng những lúc bệnh tiêu chảy, rồi ho, rồi ghẻ ngứa… làm tôi xất bất xang bang, chiều phải lo tắm rửa cho tụi nó vì tụi nó chơi nghịch lắm, đứa nào cũng dơ và đen như mọi. Đêm về tắm rửa xong sạch sẽ ba cha con nằm trên giường mà rơi nước mắt vì thương con. Vợ tôi buôn bán dưới đó cũng tạm, thỉnh thoảng hai ba tháng lên thăm tôi một lần, nàng mua thêm áo quần cho con và dành tiền để trả nợ, nhưng thăm chỉ một ngày rồi phải về ngay vì bé Phúc đang gởi dưới nhà ngoại. Tôi cũng cố gắng lắm, sau mấy tháng dành dụm, tôi gởi các cháu lại cho em gái tôi coi rồi về Mỹ Tho để mua cái radio, một mặt là để có cái mà nghe tin thời sự BBC hoặc VOA, mặt khác cũng muốn chứng tỏ cho vợ mình biết là mình cũng biết dành dụm được tiền chứ chẳng phải hoang phí. Chúng tôi mua một cái radio Viettronics mới toanh trong tiệm mất hết chỉ rưỡi vàng chứ chẳng ít, cái này có 3 band, bắt được tất cả các đài, thời ấy có loại này là xịn nhất. Vợ tôi cũng mừng lắm và qua hôm sau tôi lên lại vì em gái tôi đâu thể kham nổi cái quán được, nó còn phải đi dạy nữa mà. Có được cái radio, đêm về nghe đài mới biết được tin tức thời sự quốc tế để khỏi lạc hậu thông tin với mọi người.

Thế rồi đến ngày con trai đầu của tôi là Toàn cũng phải đến tuổi đi học, vợ tôi biết thế nên gần đến ngày nhập học, nàng lên thăm và mua cặp vở cho con làm tôi rất cảm động vì nàng còn nhớ ngày đứa con đầu tiên đến trường. Được đi học nên Toàn nó mừng lắm, bởi lâu nay nó phải phụ rửa phin cà phê cho tôi mới kịp bán, nay đi học nên đỡ phải phụ, sáng ra chỉ rửa một số phin thôi rồi cứ bỏ mặc đó cho tôi, hối hả xách cặp chạy đi học sớm cho đỡ mệt, còn tôi hết xoay bên này lại xoay bên kia mệt muốn đứt hơi, vì lúc đó quán cũng đông khách lắm, mỗi ngày bán hơn 1 kg cà phê bột thì khoảng hơn 100 ly, lại còn bán nước giải khát các thứ, cho nên tôi cũng đừ, nhưng nhờ vậy mà thu nhập cũng khá. Cứ mỗi sáng sau khi vãn khách thì chạy ra chợ mua cái gì đó về nấu ba cha con ăn trong ngày, trưa quá mệt nhiều khi nằm ngủ thẳng cẳng, đến chiều bán lai rai rồi giặt đồ, gánh nước, tắm rửa cho con, cơm nước rửa chén xong thì trời cũng vừa tối, một ngày như mọi ngày vậy. Tuy nhiên, một thời gian sau thì quán xá mở ra nhiều hơn, người ta lại có vốn nên không như tôi, họ đầu tư trang trí bàn ghế các thứ nên hút khách hơn tôi, do vậy mà việc buôn bán ế dần, chúng tôi cũng cầm chừng qua ngày thôi. (TOP)

Trưởng Ban VHTT

Bấy giờ bạn bè tôi ở nông trường thấy vậy nên Long là Phó văn phòng bảo tôi, bây giờ anh nộp đơn xin đi làm cạo mủ lại đi, rồi em sẽ tìm cách chuyển cho anh làm công việc nhẹ hơn cho đỡ khổ. Lúc ấy thì Phú phó văn phòng của tôi ngày xưa cũng bị cho nghỉ việc vì tham ô, lên thay chức Kế toán trưởng là anh chàng Phiên lớn hơn tôi ba tuổi, cũng có trình độ lớp Mười ngoài Bắc, nghe nói là đi bộ đội về, là đảng viên, cũng có người đồn là chiêu hồi nhưng tôi không quan tâm. Nghe lời Long nên tôi làm đơn xin vào làm công nhân cạo mủ, vì lúc ấy công nhân lao động phổ thông dư người quá nên họ không tuyển. Nông trường thấy chuyện của tôi đã lắng xuống nên họ chấp thuận cho tôi đi làm lại, tôi lại phải sắm sửa dao cạo mủ các thứ để đi làm, cũng làm công nhân vô lăng như trước đây. Tôi đóng cửa quán chứ không còn bán nữa. Hằng ngày tôi dậy sớm nấu cơm cho các con rồi đi làm sớm. Toàn đi học xong rồi về, hai anh em chơi với nhau, khoảng hai giờ chiều thì tôi về, rất may là chỉ sau một tuần cực khổ, Long xin cho tôi làm việc linh tinh như phụ thư ký đội, rồi đi phát chồi các thứ như công nhân chăm sóc vườn cây cho đỡ mệt, nhưng cũng chẳng được bao lâu thì anh chàng Phiên Trưởng văn phòng ấy không chịu, vì anh ta cũng chẳng thương yêu gì tôi, anh ta nói Ban Giám đốc bắt tôi đi cạo lại chứ không làm việc trái với quyết định như vậy được, thế là tôi phải đi cạo lại lần nữa, thôi thì tới đâu hay tới đó. Long tức lắm , cãi nhau với anh ta kịch liệt, cho rằng trù ếm tôi như vậy là quá đáng vì sai trái của tôi đâu có gì, nhiều người còn vi phạm nhiều hơn nữa thì sao? nhưng rồi cũng chẳng đến đâu, tôi vẫn phải đi cạo để giữ chân công nhân thôi. Ngờ đâu chỉ một hai tháng sau, Thanh tra lại về và phát hiện anh chàng Phiên này vi phạm gấp mấy lần tôi hai năm trước, anh bị buộc thôi việc về làm rẫy bên nhà vợ và Long được quyết định làm quyền Trưởng Văn phòng, đồng thời anh Ba Hiền từ An Lộc về làm Giám đốc Nông trường thay cho anh Chín Sơn.

Anh Ba Hiền này có tính rất thoáng, có nghe chuyện tôi bị kỷ luật nhưng anh nói là chẳng đáng gì so với những người khác, lại thấy tôi là người có trình độ nên bỏ như vậy thì phí quá, trong lúc nông trường chẳng có ai am hiểu về văn hóa nghệ thuật cũng như về kỹ thuật như tôi, và sau khi Long đề nghị, anh chấp thuận ngay cho tôi làm công nhân linh tinh, nghĩa là làm mọi việc linh tinh khi nông trường cần, nhân số trực thuộc Văn phòng nông trường, phụ trách cái đài truyền thanh nông trường, mỗi sáng sớm lên phát đài 1 tiếng đồng hồ và buổi tối một tiếng, ban ngày có gì làm nấy, lúc thì đi gắn dây truyền thanh, lúc thì đi sửa loa các thứ, đồng thời khôi phục lại đội văn nghệ Nông trường. Anh kêu tôi cùng nhà thầu lên Sài Gòn sắm một dàn video và cái màn hình lớn để về chiếu phim trong nông trường, giao hẳn cho tôi phụ trách việc này vì nông trường không ai biết sử dụng, chúng tôi về Bà Rịa thuê phim mang về chiếu rồi cho đoàn thanh niên bán vé thu tiền để lập quỹ.

Thời gian này Ủy ban xã cũng tín nhiệm tôi, vì sau vụ việc mấy năm trước họ thấy chẳng đáng gì để kỷ luật tôi nên quyết định tôi làm Trưởng Ban Văn Hóa Thông tin xã. Tôi được cử đi học lớp đào tạo Khóa Bồi dưỡng Văn hóa thông tin do Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật Đồng Nai hướng dẫn, sau khóa học tôi được bằng khen loại A cùng với 2 người khác và được cấp bằng hẳn hoi, đó là tấm bằng Trung cấp duy nhất tôi có được dưới chế độ cộng sản này, nay cũng đã để thất lạc đâu rồi không rõ. Tôi đem bằng khen về thì Ủy Ban họ vui và tin tưởng tôi lắm, từ đó tôi kết hợp cùng với Nông trường tổ chức văn nghệ và các hoạt động khác rất sôi nổi. Nông trường sắm dàn âm thanh trống đàn cho đội văn nghệ và những lúc không dùng, tôi đề xuất lấy dàn âm thanh ấy đi chơi nhạc cho đám cưới để lấy tiền làm quỹ. Năm đó Đoàn thanh niên thu được khá nhiều tiền quỹ nên tổ chức mấy chục người đi Đà Lạt chơi miễn phí. Tôi có đem hai con Toàn Khoa cùng đi theo cho chúng biết Đà Lạt là gì. (TOP)

Vào Hợp tác xã

Qua năm 1985 thì tình hình lại biến chuyển. Anh Ba Hiền bị kỷ luật gì đó phải về Công ty và ông Tư Nghĩa lại trở về làm Giám đốc. Ông Võ lúc ấy làm Bí thư nên không thích tôi lắm, vì không thích tôi nên ông họp lãnh đạo rồi bắt tôi phải quay về quyết định cũ, nghĩa là phải đi cạo mủ trở lại chứ không cho tôi làm nhân viên phụ trách truyền thanh nữa, mặc dù Long và mọi người can ngăn vì tôi đã vực dậy các phong trào trong Nông trường sôi nổi trở lại, tuy nhiên ông ấy là bí thư nên quyền thế lắm, ông Nghĩa sau khi bị kỷ luật thì cũng chẳng hó hé gì, mặc cho ông Võ xoay chuyển trong ban lãnh đạo và tôi buộc phải quay về cạo mủ theo đúng quyết định, tôi vừa buồn vừa uất ức nên xin nghỉ việc, không thèm làm nông trường nữa.

Thời gian ấy Bình Ba tổ chức Hơp tác xã Mua bán và anh Tường bạn tôi đã nghỉ dạy, được Ủy ban bố trí về làm Chủ nhiệm Hợp tác xã. Hoàn cảnh lúc ấy khó khăn quá nên tôi xin vào một chân trong hợp tác xã. Tuy anh rất có cảm tình với tôi nhưng đương không bố trí tôi làm một chức vụ văn phòng nào đó thì sợ người ta bảo là tôi bị kỷ luật như thế sao nay được ưu tiên vậy thì cũng không được, anh nói thôi thì cứ kiếm một chân nào đó vậy. Khi ấy tôi đã nghỉ làm Trưởng ban Văn hóa thông tin xã rồi vì chức vụ ấy có danh chứ lương lậu chẳng được gì, tôi giao công việc lại cho anh Phương là Phó ban rồi xin vào Hợp tác xã, làm công việc mổ heo và bán thịt vì chỉ có chỗ đó là đang thiếu người. Thôi thì chấp nhận vì cuộc sống vì gia đình con cái vậy, tôi tủi nhục cũng đã nhiều rồi, nay có thấp hèn hơn nữa cũng chẳng sao.

Tổ làm heo chúng tôi gồm ba người: Anh Tâm và tôi lo việc bắt heo đi cân rồi về mổ thịt, còn chị Hợi, người cho tôi ở trọ quán thì lo bán thịt và thu tiền, tôi nói toàn bộ tiền bạc anh Tâm và chị Hợi lo hết đi chứ tôi không thèm dính béng vào tiền bạc nữa mất công lắm, chỉ làm phiếu thu mua và tổng số tiền cho chị Hợi đem nộp thôi. Vào mỗi chiều hàng ngày, chúng tôi đến những nhà đã đăng ký bán heo cân heo về nhốt sau chuồng, sáng sớm phải dậy lúc 3 giờ nấu nước sôi rồi làm heo sao cho hơn 5 giờ sáng là phải giao thịt móc hàm ra cho chị Hợi bán sớm. Công việc cực lắm, khỏi phải nói thì ai cũng biết cái nghề đồ tể này gian khổ và xấu xa như thế nào rồi, nhưng tôi không cho đó là xấu xa, vì mình làm việc lương thiện mà sợ gì. Có điều anh Tâm theo đạo Phật, ảnh không dám sát sanh nên tôi hoàn toàn phải lo việc chọc tiết heo chứ ảnh nhất quyết không chịu làm, chỉ cột dây giữ chặt cho tôi làm thôi, tôi bảo anh giữ heo cho tôi dùng dao đâm thì anh cũng gián tiếp mang tội vậy, nhưng anh nói dù sao cũng đỡ hơn đâm dao vào nó, và thế là từ đó tôi phải chọc tiết heo hàng ngày, cho dù trước đó tôi không biết gì về nghề này, tôi chỉ biết cắn răng nuốt nước mắt mà làm vì miếng cơm manh áo cho con thôi. Ngày này qua ngày khác mỗi chiều bắt heo về là phân heo dính đầy người hôi hám không thể tả, nhưng cuộc sống đã dạy cho ta bài học về sự kiên trì thì ta phải cố gắng mà học thôi, cho dù đắng cay hay mặn chát vì nước mắt đi nữa thì đó cũng là cái giá cho ta biết chiến đấu với cuộc đời. Phải chiến thắng nó. Chiến thắng để mà tồn tại.

Bấy giờ vợ tôi thấy tôi khó khăn quá nên nàng quyết định lên lại Bình Ba để phụ với tôi, vì buôn bán lúc đó gắt lắm, kiếm được chẳng đáng bao nhiêu mà bị bắt một cái thì sạch vốn, thế là nàng gởi bé Phúc lại cho ông bà ngoại nuôi rồi lên với tôi, xin vào làm ở Hợp tác xã. Đến nơi, anh Tường thấy vợ tôi cũng đậu Tú Tài rồi nên không ngại nữa, bố trí vợ tôi làm kế toán Hợp tác xã phụ với Linh là bạn của em trai tôi. Cũng có tiếng ra tiếng vào về việc tôi bị kỷ luật nhưng anh ấy bảo chồng làm thì chồng chịu, còn vợ người ta có trình độ thì cứ để cho người ta làm, thế là kể từ ngày đó, vợ tôi vào làm văn phòng chung với Linh và Trang Thủ quỹ.

Tuy công việc của tôi cực khổ là vậy, nhưng thu nhập lại khá hơn làm văn phòng hay công nhân nhiều, bởi ngoài lương cơ bản của Hợp tác xã ra, chúng tôi có thêm khoản phụ cấp riêng khi bán thịt. Làm một con heo ra, tiền phải trả cho chủ heo theo giá heo hơi mà nhà nước đã quy định, khi mổ xong, Hợp tác xã cân móc hàm thịt và đầu lòng được bao nhiêu ký theo tỉ lệ định sẵn, số kg móc hàm quy ra thành tiền mỗi kg là bao nhiêu thì Hợp tác xã nắm chắc phần lãi từng con rồi. Chị Hợi trong tổ chịu trách nhiệm số thịt móc hàm ấy xẻ ra bán theo từng loại thịt, xương, ba rọi… cho người dùng, thường thì ngày nào cũng lãi, và số tiền lãi ấy là lãi liêm chính do xẻ thịt bán mà ra nên chia đều ra cho 3 chúng tôi, vì tuy chị Hợi không cực khổ làm heo như anh em tôi, nhưng chị chịu trách nhiệm bán và thu tiền cũng cực lắm, chị lại rất ngay thật, bán được bao nhiêu nói bấy nhiêu, anh em tôi sau khi phụ chị rã thịt ra xong rồi thì nghỉ ngơi, vô căn tin ngồi nhậu thôi, lâu lâu gặp con heo nào nhiều mỡ vì tỉ lệ móc hàm cao thì chúng tôi lấy mỡ mang về, còn con nào ốm đói xương to thì hao hụt tí xíu hoặc huề vốn thôi chứ không có lỗ, do vậy mà ngày nào đi làm về nhà tôi cũng có thịt heo ăn, chà bông làm cả hũ lớn, mỡ nước cũng vậy, đựng đầy mấy hũ lớn ăn không kịp. Mỗi ngày đều được chia lãi tuy không nhiều nhưng gom cả tháng lại thì hơn gấp đôi tiền lương chứ chẳng ít, tôi còn nhớ hồi đó chúng tôi mua hai vợ chồng hai đôi dép lào màu xanh mà ai nấy đều trầm trồ, bởi dép lào hồi ấy mắc lắm, chỉ thấy cô Trang làm thủ quỹ mới dám đi thôi. Do đó làm heo tuy cực khổ và hôi hám nhưng có thu nhập cao bù lại nên tôi cũng ráng chịu cực chịu khổ, chịu người đời coi thường, nhưng gia đình mình khá hơn là được. Lúc này vợ tôi đang mang thai đứa thứ tư nhưng nhờ làm kế toán văn phòng nên cũng không cực lắm, bé Phúc vẫn ở dưới nhà ngoại chứ chưa lên trên này, đứa thứ hai cũng đã sửa soạn vào học lớp Một, công việc của tôi tuy cực nhưng vẫn ổn định vì chúng tôi đang lo dành dụm để mua đất mua cây làm nhà, cứ dành từng tí một, nay mua được cây xẻ về làm vài cây cột, vài tháng sau lại mua cây xẻ được chục tấm ván, được bao nhiêu thì chất đầy bên hông quán, chờ khi có dịp mua được nền thì dựng nhà.

Một lần nọ, lúc đó gần đến ngày đám cưới em kế tôi, tôi nói với em tôi là anh nghèo quá, không có tiền cho em như người ta, nên đến ngày cưới thì tôi mua hẳn một phần tư con heo lớn, được khoảng hơn 20 kg để cho em tôi thay vì tiền cưới. Đang xẻ thịt ra thì O Cúc tôi từ Hóc Môn lên dự đám cưới, O ra chợ thấy tôi đứng bán thịt heo ở quày thì tiến lại gần, tôi nhìn lên mới chào O thì O đứng ngay giữa chợ, hai hàng nước mắt trào ra nhìn tôi rồi vừa khóc vừa kể lể, cái thằng Hùng Lân ngày xưa ở với O ở Quy Nhơn học giỏi thế mà nay lại khốn khó nghiệt ngã thế này, đau đớn quá. Tôi chạy ra ôm O an ủi, cố nén nước mắt nở nụ cười nói số phận vậy nên O đừng buồn, lúc này lúc kia thôi O ơi, miễn sao con cố gắng sống tốt là được mà.

Lúc ấy tuy làm heo, nhưng chúng tôi vẫn dành dụm được hai chỉ vàng và mua một miếng đất hai sào rưỡi trong Suối Đá Bạc, đến mùa vì bận làm heo nên tôi chỉ thuê người trồng mì chứ không trỉa bắp vì không có ai coi, thỉnh thoảng buổi chiều tôi mới ra vô làm cỏ thôi. Mì lên tốt lắm, đến khi thu hoạch, chúng tôi thuê gia đình chị tôi cùng mọi người vào làm, cạo vỏ rồi băm ra để phơi khô, đêm nào tôi cũng phải vào canh đến gần sáng thì chạy ra làm heo, gian khổ lắm. May mà lúc ấy tôi không hề bị bệnh, quần quật như trâu mà vẫn khỏe. Khi mì đã khô, chúng tôi đóng bao đàng hoàng để chở ra bán. Thời ấy họ bắt người dân phải bán mì ở các trạm thu mua với giá rẻ mạt nên tôi tức lắm, công sức mình bỏ ra nhiều mà giá cả như vậy thì lỗ, do vậy nên anh Tâm làm heo bàn với tôi là mình sẽ chuyển mì ra giữa khuya, đi theo đường lô thì không sợ du kích phát hiện, đưa về nhà bán cho con buôn thì được giá hơn. Chúng tôi thuê mấy chiếc xe bò chở hơn 2 tấn rưỡi mì khô đi ra, qua khỏi lô cao su đến đường cái thì hỡi ôi, du kích xã nó nhào ra chận lại bắt trọn đưa về chất ở xã, dù trước đây tôi làm Trưởng ban Văn hóa Thông tin xã mà nay họ vẫn bắt, chẳng nể tình gì, bởi lúc ấy ai cũng khổ, bắt được cái gì là bắt để kiếm chác, cho nên mùa ấy tôi trắng tay, lỗ cả tiền thuê công bào mì. Quá chán ngán nên mấy tháng sau, tôi bán lại miếng rẫy đó với giá cũng bằng như lúc mua cho yên, chẳng thèm làm rẫy nữa.

Làm heo được hơn một năm thì vợ tôi đến ngày sinh, mợ tôi lại bắt quay về Mỹ Tho sinh chứ không cho sinh trên này vì sợ y tế ở đây không đủ phương tiện. Lúc ấy anh Tường liền họp ban chủ nhiệm lại đề nghị tôi vào thay thế chỗ của vợ tôi nhưng tôi không chịu, vì làm kế toán lương lậu chẳng là bao, thà làm heo cực hơn nhưng có thu nhập mà lo cho con cái hơn, Hợp tác xã liền thu nhận cô Gái gì đó vào làm thay thế chỗ của vợ tôi, tôi vẫn làm heo như cũ. Khi vợ tôi sinh thì tôi nhờ em gái tôi trông coi các cháu giùm để tôi về thăm và đưa vợ tôi lên, về đến Mỹ Tho thì thấy vợ tôi sinh ra một cháu gái rất đẹp, đôi mắt đen láy. Mọi người trong phòng cứ bảo với vợ tôi rằng để đợi ba nó đến xem có đẹp trai hay không mà sinh ra nó đẹp quá vậy. Ở lại đó ít ngày, tôi lại đưa vợ con tôi lên lại Bình Ba, tôi đặt tên con là Hạnh, bởi chị nó là Phúc rồi, thế nên hơi ngược đời một chút, người ta đặt Hạnh Phúc, còn tôi thì lại Phúc Hạnh. Bé Phúc lúc này đã hơn 3 tuổi, được ông ngoại và các cậu dì dạy dỗ sao ấy mà giờ đó nó đã biết tính cộng trừ rồi, các mặt chữ cũng biết gần hết rồi, còn nhỏ mà đã biết đếm tiền rành mạch lắm. Tôi cám ơn cậu mợ rồi đưa cả hai con lên trên này luôn. Sau khi nghỉ thai sản ba tháng, vợ tôi đi làm lại, và vì hôm trước đã thay bằng cô Gái rồi nên bây giờ họ bố trí vợ tôi làm Kế toán Cửa hàng ăn uống và Thu mua Nông sản. Lúc ấy em gái tôi cũng vừa sinh con nên những lần vợ tôi đi công tác thu mua ở xa thì ở nhà em gái tôi qua cho cháu bú thế cho mẹ đi làm.

Lúc này Hợp tác xã bắt đầu phát triển và đang sửa soạn xây dựng một Cửa hàng Mua bán và Văn phòng ngay mặt tiền. Anh Tường đến gặp tôi và hỏi nhờ tôi giúp vẽ bản vẽ kiến trúc công trình này được không, vì nếu thuê kiến trúc sư bên ngoài thì sẽ rất tốn kém, công trình hơn 300 mét vuông mà họ tính giá tiền vẽ theo mét vuông thì tốn lắm, tôi trả lời rằng được vì tôi cũng đã biết qua sách vở cũng như đã thấy các chi tiết trên những bản vẽ trước đây hồi còn làm nông trường rồi, do đó mà tôi nhận lời. Anh Tường bảo tôi nghỉ làm heo để giúp anh thực hiện công trình này, vì muốn vay tiền Ngân hàng để xây thì bản vẽ phải được Phòng Xây dựng Huyện duyệt. Thế là tôi nghỉ việc làm heo kể từ đó. tổng cộng từ khi tôi bắt đầu làm heo đến khi nghỉ là đã mổ 387 con, vì khi tôi bắt đầu làm, tôi đánh số thứ tự lại từ đầu nên biết rõ số lượng này. Anh Tường chủ nhiệm đến nhà thảo luận chi tiết diện tích phòng ốc với tôi mấy bữa rồi tôi bắt tay vào vẽ, hồi đó chẳng biết giấy can để vẽ kiến trúc là gì, chỉ biết mua tờ giấy cứng Croqui rồi vẽ thẳng trên đó. Tự dưng nhờ ơn Chúa hay sao mà tôi từ một thằng chưa vẽ thiết kế bao giờ thế mà sau ba bốn ngày là tôi hoàn thành xong bản vẽ công trình, từ mặt bằng mặt dựng mặt cắt cho đến phối cảnh, các chi tiết kỹ thuật xây dựng sắp đặt kết cấu sắt trong bê tông thế nào, tay-dê ra sao tôi đều học lóm mà làm, kể cả dự toán vật tư công trình, bao nhiêu sắt loại gì, bao nhiêu xi măng, cát đá, gỗ, ngói lợp, mác xi măng các thứ tôi đều làm được một mình thôi chứ không có ai biết mà phụ.

Ngày đi duyệt bản vẽ là ngày quan trọng nhất trong công việc, chúng tôi mang bản vẽ và giấy tờ theo xuống Phòng Xây dựng Huyện, họ xem qua rồi hỏi ai vẽ bản vẽ này vậy? Tôi bảo là tôi thực hiện toàn bộ, họ hỏi anh có bằng cấp gì mà làm được việc này? Anh Tường liền nói mấy anh cứ xem bản vẽ đi, nếu có sai sót nào chúng tôi sẽ sửa thôi. Họ hẹn chiều sẽ trả lời, tôi cũng hơi lo nhưng cũng khá tự tin vì nếu có vẽ sai thì lúc nãy họ đã nói rồi vì họ xem đi xem lại rất lâu. Đầu giờ chiều hôm đó chúng tôi đến thì thấy họ đã duyệt, mãi đến ngày nay tôi còn nhớ rất rõ là họ chỉ sửa một chỗ duy nhất ở tấm bê tông ô văng phía trước, tôi vẽ là kết cấu sắt cách nhau 10 x 10 cm nhưng họ sửa lại là 10 x 15 cm vì đó chỉ là ô văng che mưa chứ không phải kết cấu tầng có người đi lại trên đó thường xuyên. Chúng tôi mừng quá vì chi tiết chỉnh sửa đó không đáng gì, thực ra thì họ muốn tìm cái gì đó để sửa coi như cái quyền xét duyệt của họ vậy thôi, chứ 10 hay 15 thì nào có đáng gì, nhưng vui nhất là họ vẫn duyệt bản vẽ và quan trọng là duyệt bản dự toán vật tư công trình, đóng dấu đàng hoàng. Có được điều này thì Ngân hàng mới cho vay và tiến hành xây dựng được.

Anh Tường mừng lắm vì không ngờ nhờ thực lực của chính địa phương mình mà lại đỡ tốn kém khoản tiền rất lớn nếu phải thuê kiến trúc sư thực hiện. Anh mừng một thì tôi mừng hai, bởi tôi cảm tạ Chúa vì Chúa đã cho tôi trí óc mà làm một công việc thiết kế đầu tiên thành công như vậy đối với một thằng tay ngang như tôi. Và cũng kể từ đó, Ủy ban xã và mọi người cũng nhìn tôi bằng một cặp mắt khác, họ không ngờ là tôi thực hiện được như vậy, chứng tỏ là tôi có thực lực thật sự chứ không phải là kẻ gặp may, bởi sau đó, thời ấy mới ra phiên bản báo Tuổi Trẻ Cười, tôi thử vẽ một tranh biếm họa về các quan tham gởi lên thì lại được đăng, họ gởi báo biếu về cho tôi nhưng chẳng thấy nhuận bút đâu, tôi vui lắm, đem khoe mọi người nên mọi người biết là tôi cũng có khả năng chứ không phải cầu may.

Thế là anh Tường kêu tôi nghỉ hẳn làm heo, giúp anh làm giám sát thi công công trình, chúng tôi đi Sài Gòn photo lại vì khổ bản vẽ lớn, Bà Rịa không có, cùng mua sắm thêm các thứ linh tinh rồi sau đó tiến hành thi công. Nói chung thời gian ấy tôi cũng hơi bị hư vì phải nhậu nhiều, gặp khách ngân hàng, rồi phòng này ban nọ cũng mệt lắm, hở ra là gọi tôi để nói chi tiết này nọ để họ mời thầu. Tôi thì chỉ lo chi tiết kỹ thuật thôi chứ tôi không dính béng gì đến vật tư tiền bạc, vì tôi đã kinh nghiệm rồi, và cũng chán ngán lắm rồi, có điều lúc này đi làm thì ăn mặc đàng hoàng chứ không phải áo quần dơ dáy hôi hám như hồi làm lò heo nữa, chỉ khác là khác thế thôi. Lúc đó họ kêu nhà thầu địa phương là anh Thời thực hiện công trình này, vật tư đổ về theo dự toán của tôi và đã được ngân hàng duyệt cho vay, ông chủ thầu cứ theo bản vẽ mà làm, tôi chỉ theo dõi các kết cấu kỹ thuật và mác xi măng các thứ. Anh Thời này là bạn thân anh Tường nên hai người nhậu nhẹt miết, tôi cũng cẩn trọng nên lâu lâu mới tham gia thôi chứ không muốn dính bén sâu hơn.

Khi làm xong hơn phân nửa công trình rồi, một đêm nọ, anh Tường gặp tôi và bảo: Chủ thầu nó bảo so với dự toán thì khi thực hiện, dẫu đã đúng kỹ thuật nhưng cũng dư xi măng nhiều, anh định bàn với tôi là đồng ý để cho chủ thầu nó bán 40 bao xi măng chia nhau để anh em mình có thêm thu nhập, tuy anh là chủ nhiệm nhưng việc này nếu tôi đồng ý thì mới làm được. Lúc ấy xi măng vô cùng khan hiếm nên mắc lắm, một chỉ vàng chỉ mua được mấy bao là cùng thôi. Tôi trả lời anh ngay mà không cần suy nghĩ: Anh Tường nè, mình biết anh rất quý mến mình, nhưng thực lòng thì mình đã bị vướng sai lầm một lần rồi, không bao giờ mình muốn đạp cứt lần nữa đâu, anh cứ để làm đúng như chi tiết bản vẽ để mình xem cái công trình mình tính toán như thế đúng không thôi. Anh ấy liền bảo vậy thì thôi, cùng đừng nói với ai chuyện này nhé. Tôi gật đầu và tuy từ đó về sau, anh ấy vẫn đối với tôi rất thản nhiên nhưng tôi biết là anh cũng bắt đầu hơi căm tôi, vì tôi không chịu làm chuyện sai trái với anh ấy. Anh Thời chủ thầu biết vậy thì tức tôi lắm, xài xi măng xả láng luôn, nhưng tôi chỉ cười vì làm thế thì công trình thêm chắc chắn, nhưng phung phí là tôi nhắc nhở ngay. Tuy ngoài mặt thì cười nhưng tôi biết trong lòng rất ghét tôi vì tôi không chịu ăn rơ với ảnh và anh Tường.

Hợp tác xã được xây dựng hoàn thành như mong đợi, và mặc dù làm đúng kỹ thuật, số xi măng vẫn còn ít hơn so với dự toán là 80 bao, cho nên chi phí công trình được giảm đi một số tiền không hề nhỏ. Tôi không ham gì nên xin anh Tường cho tôi quay trở lại làm heo, nhưng vì đã bố trí anh Lưu vào làm rồi nên anh không chịu, bảo tôi cứ ở trên này làm kế toán phụ việc với Linh, vì Linh sắp đi học lớp Kế toán trưởng mấy tháng, cần phải có người thay. Trong thời gian này, vì quá bận bịu nên vợ tôi phải xin nghỉ Hợp tác xã để lo việc nhà vì lương lậu chẳng còn là bao, tiền lãi của Hợp tác xã bị chi quá nhiều nên chia ra tiền lương rất ít làm ai cũng nản. Tuy nghỉ rồi, nhưng nhờ các mối quen biết trước nên vợ tôi khi nào rảnh thì chạy vạy các hợp đồng mua phân bón các thứ cho Hội Nông dân, nhờ vậy mà cũng kiếm thêm khoản chênh lệch, vì những hợp đồng ấy cũng lớn lắm, mỗi lần về hàng mấy chục tấn phân bón, xe tải ra vô nườm nượp. Chẳng ai có thể ngờ được vợ tôi lúc ấy chỉ chạy chiếc xe đạp cà tàng thôi mà đến Ủy ban này Ủy ban nọ, rồi thay mặt anh Thành là chủ tịch hội nông dân ký hợp đồng mua phân bón các thứ bán thiếu cho nông dân, khi thu hoạch họ sẽ hoàn lại, thế mà vợ tôi vẫn làm được và anh Thành chủ tịch hội rất tin tưởng chúng tôi.

Lúc ấy, để mở rộng kinh doanh, hợp tác xã bày ra phương pháp bán hàng bằng cách đổi mì khô lấy hàng hóa, cách làm này cũng khá tiện là nông dân không cần phải bán mì khô cho điểm thu mua mà trực tiếp bán cho hợp tác xã, quy ra thành tiền rồi đổi thành hàng nhu yếu phẩm như gạo, đường, bột ngọt các thứ, có điều làm đơn giản quá, cứ thủ kho nhận mì khô, ghi phiếu tay là bao nhiêu kg mì rồi người mua cầm phiếu tay ấy qua đổi hàng, hàng hóa thì xuất nhập số lượng ghi rõ, nhưng phiếu tay thì chẳng ai kiểm soát nổi, mặc dù đã có đóng dấu của hợp tác xã. Cuối tháng tổng kết cả nghìn phiếu tay rồi tổng kết lại quy ra thành tiền, so với hàng nhu yếu phẩm đã xuất, nếu phù hợp là đúng còn nếu chênh lệch thì không biết do đâu, nằm ở phiếu nào nữa. Linh là kế toán trưởng nên nhức đầu ròng rã cả tuần lễ mà không tìm ra được, nếu như khoản chênh lệch đó nhỏ thì còn xí xóa được, đằng này chênh lệch rất lớn nên không dễ dàng gì làm khớp với bảng cân được.

Anh Tường nhờ tôi giúp Linh tìm ra chỗ sai sót và thủ phạm là ở khâu nào, sau hai ngày miệt mài, tôi suy luận số tiền hàng nhu yếu phẩm đó chênh lệch tương đương đúng 7 tấn mì khô, tôi chuyển qua kiểm tra cả nghìn phiếu và sổ nhập kho mì khô thì tìm ra đúng thủ phạm là cô thủ kho, đúng một phiếu 7 tấn ăn gian, có phiếu mà không có mì nhập kho. Cô thủ kho này tên là Bảy, vợ của Trung là bạn tôi và Trung cũng là em kết nghĩa với anh Tường. Tôi trình bày cho Linh và anh Tường biết tất cả các bằng chứng và phương pháp kiểm tra, thì rõ ràng cô thủ kho đã cố ý nhập khống để lấy khoản chênh lệch nhu yếu phẩm. Anh Tường thấy sự việc và bằng chứng rõ ràng quá bèn kêu cô ấy lên, cô ấy khóc lóc nói không biết nhưng anh Tường bảo: Thôi, sự việc rành rành như vậy rồi, còn khóc gì nữa em, lo về nhà lấy tiền nộp vào bù lại đi chứ còn đợi gì nữa? Thế là cô ấy quay về. Tuy bị tôi vạch trần như thế, nhưng vợ chồng cô ấy sau này vẫn không giận tôi, vì họ biết tôi cao tay ấn lắm, về kế toán thì tôi đã kinh qua nên khó qua mặt tôi được. Từ đó về sau ai cũng cười bảo đứa nào mà ăn gian, tham ô hối lộ, cứ cho anh Lân vô đoàn kiểm tra là xong ngay. Tuy biết vậy, nhưng tôi hiểu là tất cả họ đều gườm tôi, mình lại không thân thế gì, hôm nay họ có thể nể nang tôi vì tôi biết nhiều và giỏi hơn họ, nhưng về sau họ đã cố tình chơi mình thì mình khó bề mà chống nổi. Do đó, khi Linh đi học, anh Tường đề xuất tôi vào thay Linh làm Kế toán trưởng, tôi cương quyết không nhận và đòi về làm heo cũng được, nhưng tổ làm heo đã có người thay lâu nay rồi nên tôi quyết định xin nghỉ luôn vì không muốn mình bị dính bẫy lần nữa, mặc dù sau này anh Tường và tôi vẫn đối xử với nhau bạn bè thân thiết như bình thường. (TOP)

Gian khổ ở chợ

Lúc này cây gỗ các thứ ở nhà tôi đã chuẩn bị xong, nhờ anh Hoàng và Quang là em rể tôi mấy tháng trời rảnh ra là cưa xẻ từng loại để dành sẵn đó. Tôi mua lại được của anh Hướng miếng đất ngay trước cửa chợ với giá rẻ mạt, tương đương 1 chỉ vàng mà thôi, trước đây anh ấy làm quán cà phê nhạc sống nhưng trầy trật mãi, không thành công nên anh dọn nhà đi về quê Quảng Trị. Nghe đâu mọi người mê tín dị đoan, cho rằng mảnh đất ấy hướng thẳng về cái đòn dông Nhà lồng chợ chỉa vào nên không ai thèm mua vì ở đó xui rủi lắm, làm ăn không được. Tôi nghe vậy liền đến thương thảo mua và chồng tiền ngay, bởi vì tôi tin vào Chúa của tôi, thành đạt mọi sự đều do Ngài chứ không quan tâm đòn dông đòn bão gì cả.

Tết Đinh Mão 1987 năm ấy chúng tôi sắm sửa đơn giản, nhưng cũng đủ thịt thà bánh mứt cho các con, chỉ đi lễ nhà thờ và lên mừng tuổi mẹ tôi thôi, sau đó là bắt tay ngay vào việc dựng nhà vì chúng tôi nôn nóng lắm. Ở đó có đào sẵn giếng rồi nên tôi thuê người đến đào đất lên đắp nền sẵn, định bụng nếu mùng 4 tết mà xong thì mùng 5 dựng nhà, nhưng ông làm nền cho tôi bảo rằng: Tao biết mày không tin dị đoan, nhưng ai mà mùng 5 lại đi dựng nhà? Mày không kiêng nhưng hàng xóm người ta thấy vậy xì xầm dị nghị mệt lắm, thôi để tao ráng trưa mùng 4 làm xong nền để chiều dựng cái kèo nhà lên trước để đó, sau đó làm tiếp, khỏi mang tiếng. Tôi nghĩ vậy thì càng tốt, và đúng trưa mùng 4 tết, chúng tôi chuyển gỗ qua rồi anh Hoàng cùng mọi người ráp giàn vào và dựng một ngôi nhà gỗ 5 x5 m. Công việc tiến hành hoàn toàn tốt đẹp, mặc dù dân trong vùng ai cũng cho là tôi bạo gan, quay mặt thẳng về phía đòn dông nhà lồng chợ mà không sợ xui rủi. Tôi chỉ cười bảo rằng chúng tôi là người công giáo nên không tin dị đoan, và cũng nhờ ngôi nhà ấy mà chúng tôi làm nên chuyện sau này.

Nhà cột kèo các thứ đều bằng gỗ, vách ván tôi đã thuê xẻ sẵn, chỉ có mái là lợp tranh vì lúc đó chúng tôi chưa đủ tiền, nền cũng chỉ bằng đất thôi chứ lấy đâu ra xi măng mà tráng, xi măng lúc ấy khan hiếm và đắt lắm. Thôi thì như thế cũng đã là diễm phúc lắm rồi vì nay đã có một ngôi nhà riêng cho gia đình mình. Chúng tôi dọn đồ qua và cám ơn anh chị Hợi rất nhiều, bởi anh chị đã cho chúng tôi nương náu cái quán nhỏ suốt gần 4 năm trời mà không hề lấy một đồng. Chị còn là mẹ đỡ đầu của Minh Phúc con gái tôi. Mối chân tình ấy tôi luôn khắc ghi và giữ mãi cho đến tận ngày nay. Sau khi chúng tôi dời đi, anh chị cũng gỡ bỏ luôn cái quán, không còn dùng nữa.

Có được ngôi nhà, chúng tôi sắm các nồi nấu rượu, lu khạp các thứ để bắt tay vào vào việc nấu rượu nuôi heo. Tôi mua một tấm đan lớn bằng bê tông trong xóm rồi chở về nhà để làm chuồng heo rồi mua heo về nuôi, còn vợ tôi thì đi buôn gạo về vừa có gạo nấu rượu vừa có gạo để bán, thường thì buổi chiều tôi đạp xe lên Xà Bang chở về mỗi lần một tạ, vợ tôi phân ra bán lẻ giá rẻ hơn ở đây nên người ta tới mua đông lắm, cũng kiếm được đồng lời. Thời ấy chúng tôi làm đủ thứ việc, hằng ngày mỗi sáng sớm lấy hèm ra cho vào nồi rồi bịt kín các kẽ hở nồi lại bằng hèm và cám, bắc lên nấu rượu tới trưa thì xong, mỗi nồi như vậy tôi thu được khoảng 5 lít rượu đem lên bỏ mối cho những cửa hàng tạp hóa, sau này thấy rượu của tôi ngon nên Bé Nguyệt con bác Hai bao thầu hết, mang lên khu trung tâm bán, ngày nào cũng vậy, cứ đến đầu giờ chiều là nó xuống lấy và vài hôm thanh toán một lần, số hèm nấu xong thì chúng tôi trộn với cám nuôi heo, nhờ đó mà heo mau lớn lắm, nhưng cực là phải quay nước mệt phờ người, con tôi còn nhỏ nên đâu có phụ gì được, nó chỉ bồng em dắt em đi chơi thôi.

Đến chiều thì tôi lại nấu nồi cơm khác để lên men chuẩn bị nấu cho tuần sau, còn vợ tôi thì ngoài việc bán gạo lại lên Sài Gòn mua bình về nấu nước sâm đem ra chợ cho các con bán, lúc thì Toàn lúc thì Khoa hoặc bé Phúc ngồi bán. Phúc tuy mới hơn ba tuổi nhưng ngồi bán cả chợ bu quanh vui lắm, họ cứ đến hỏi mua rồi hỏi nó thối tiền bao nhiêu nó tính toán được hết, ai cũng khen nó sao còn nhỏ mà thông minh vậy, còn Toàn lúc đó tuy mới học lớp Bốn nhưng đã biết nhóm lửa nấu cơm được rồi. Cuộc sống cứ thế trôi qua, chúng tôi dành dụm tu sửa nhà dần dần, mua được tôn xi măng về thay chứ mái tranh thì nhà cứ bị dột hoài. Đêm đầu tiên sau khi thay tôn, chúng tôi nằm nhìn lên trần mà ứa nước mắt, vì lâu nay mái tranh tối om nay lại có tôn trắng toát, vừa mừng vừa thầm cầu nguyện cho tương lai tươi sáng hơn.

Vợ tôi lại chạy vạy lên về Sài Gòn Mỹ Tho mua hàng mấy tạ trà mang về trên này bán, vừa bỏ mối cho các hợp tác xã vừa bỏ mối cho các sạp ngoài chợ, mỗi lần đi chở hai bao lớn sau chiếc xe đạp rong ruổi từ Bình Ba xuống Suối Nghệ, còn tôi thì mua một cái máy xay quay tay của Liên xô, mỗi chiều ra trước chợ ai mua cá về làm chả viên thì ghé tôi xay ra cho họ đem về, kiếm tiền lẻ thôi, nhưng gom lại mỗi ngày thì cũng nhiều. Lúc ấy không còn sợ xấu mặt nữa, lòng cứ tâm niệm rằng đồng tiền mình kiếm ra bằng chính sức lao động chân chính của mình là được. Nhiều người nhìn tôi thấy thương hại quá, họ nói ai ngờ anh Lân ngày xưa Trưởng phòng là thế mà ngày nay phải ngồi ngoài chợ xay cá, tôi đau lòng và tủi nhục lắm chứ, nhưng nén nước mắt bảo họ rằng đừng thương hại tôi, nếu thương tôi thì cứ mua cá nhiều nhiều đưa tôi xay cho là được.

Vợ tôi còn mua thêm hột vịt các loại từ miền Tây đem lên bán, có lần đi bị kẹt qua đêm không về kịp, bé Hạnh thèm sữa mẹ khóc cả đêm, hôm sau vợ tôi về quẹt các thuốc màu xanh lên ngực đưa ra cho nó nhìn nó sợ mà bỏ bú để vợ tôi có thời gian hơn, và nó bỏ bú được ngay sau chỉ một lần ấy nên chúng tôi cũng rảnh tay làm việc. Ngày qua tháng lại, cứ mỗi chiều tôi ngồi xay cá, vợ tôi ngồi bán hột vịt, có lần bán không hết nó nở ra mấy con đem đi cho họ. Thường thì vào mùa tết, hột vịt bán chạy dữ lắm, chúng tôi còn bán sỉ cho hợp tác xã nữa để họ bán lẻ lại. Do vậy, tuy không còn làm hợp tác xã nữa nhưng công việc chúng tôi quay đều hết việc này tới việc kia như hợp tác xã vậy, do đó mà cuối năm, chúng tôi đủ tiền tráng xi măng nền nhà cho sạch sẽ hơn. Ngày tráng xong nền, chúng tôi mừng quá nằm dài trên nền cho mát, tận hưởng những thành quả nhỏ nhoi của mình sau bao nhiêu gian truân khổ ải. (TOP)

Vẽ truyện tranh

Năm 1987 là năm đáng nhớ nhất của tôi, vì nó như đã bắt đầu một chương mới trong cuộc đời, và thời cuộc bấy giờ cũng đang biến chuyển. Sau những khó khăn vì cơ chế quan liêu bao cấp và ngăn sông cấm chợ, đất nước muốn tàn mạt luôn, nên nhà cầm quyền họ phải đưa ra đường lối đổi mới sau đại hội đảng năm 1986, và từ đó kinh tế xã hội mới cởi mở hơn trước để mọi người làm ăn sinh sống. Khoảng giữa năm đó, nhân có dịp tôi về Mỹ Tho, tôi ghé ra nhà sách, vì tuy nghèo, nhưng tôi cũng luôn dành dụm mua sách về đọc, hôm đó tôi thấy trên quày một số truyện tranh của Duy Hải và những người khác, thì ra bây giờ đã đổi mới nên có thể phát hành các loại sách này. Tôi xem qua thì thấy mình có thể vẽ được, vốn liếng cốt truyện thì tôi có nhiều trong đầu rồi vì trước đây tôi đọc sách nhiều, thời trẻ xem phim cũng nhiều. Hồi tôi học lớp Chín tôi cũng thử vẽ truyện tranh Lucky Luke do tôi chế ra dài mấy chục trang rồi, do đó mà tôi mừng lắm, nghĩ rằng mình sẽ làm thử xem sao.

Và thế là khi về, ngoài công việc thường ngày ra như nấu rượu, nuôi heo, xay cá, tôi dành ra thời gian ra để vẽ truyện tranh. Tôi chọn truyện Đảo Châu báu và bắt tay vào vẽ nó, truyện dài nhưng tôi chỉ gom lại thành một tập truyện tranh 32 trang mà thôi. Vì chưa nắm rõ kỹ thuật in nên tôi cứ vẽ bằng mực tàu trên giấy fort cả hai mặt như một cuốn truyện bình thường, khoảng gần một tháng thì vẽ xong, lúc ấy có chị kế của tôi lên thăm mẹ rồi ghé tôi chơi, tôi đưa cho chị coi và chị cũng ngạc nhiên lắm, bảo tôi gởi Nhà xuất bản xem sao, thế là qua hôm sau, tôi và chị lên Nhà xuất bản Đồng Nai và đưa vào cho họ xem. Biên tập của họ xem xong thì cười, bảo rằng tôi vẽ cũng coi được nhưng làm như vậy thì không đúng cách rồi, bởi bản vẽ phải thực hiện trên giấy can, là một loại giấy bóng mờ của kiến trúc, còn chữ thì phải viết bằng bút kim cho đều hơn, mỗi trang một bản chứ không phải vẽ hai mặt như tôi được, vả lại thời ấy truyện tranh thường chỉ gói gọn 16 trang khổ nhỏ mà thôi, do đó mà họ không nhận, trả về cho tôi vẽ lại. Lúc đó thay vì buồn thì tôi lại vui vì nhờ đó mà tôi đã biết kỹ thuật vẽ truyện rồi, truyện Đảo Châu báu tôi không vẽ lại nữa vì rút gọn quá thì người đọc sẽ khó hiểu. Trong đầu tôi đã lên ý niệm là sẽ vẽ một truyện khác. Sau đó thì chị kế tôi về Mỹ Tho và tôi ghé Sài Gòn, ra đường Nguyễn Huệ mua được mấy mét giấy can và mực tàu chính hiệu cho đậm hơn rồi quay về Bình Ba.

Vài hôm sau thì chị tôi viết thư lên bảo chị có quen với một cô giáo trong trường, có đứa con tên là Hiếu cũng đang vẽ truyện tranh, chị hỏi thăm nó và nó bảo nếu có vẽ thì đem về Nhà xuất bản Tiền Giang thuận tiện hơn, vì Hiếu cũng là bạn của họa sĩ Duy Hải. Rất may cho chị là thời ấy chị có được gởi đi học lớp đào tạo nâng cao cho giáo viên Âm nhạc do Nhạc viện Thành phố về dạy, trong lớp chị có quen biết ông Năm Thương là Giám đốc sở Văn hóa Thông tin Tiền Giang, chị nói tôi cứ vẽ đi rồi chị sẽ đưa về cho ông Năm Thương duyệt và in cho. Và thế là tôi bắt đầu thực hiện cuốn truyện đầu tay của mình: Người đầu tiên lên mặt trăng - truyện phỏng theo nguyên tác của Walter Scott, tôi không có tư liệu mà chỉ nhớ lại vì năm 1972 tôi có xem phim đó chiếu ở rạp Định Tường. Tôi thực hiện bản vẽ theo đúng quy cách đã biết trong vòng hơn một tuần, nhưng chữ thì tôi vẫn viết bằng bút sắt chấm mực thôi vì tôi chưa đủ tiền mua bút kim, thời ấy một cây bút kim Rottring của Đức có giá đến gần 1 chỉ vàng lận, cho nên tôi tạm dùng bút sắt vậy, sau này có đủ tiền thì mới mua được.

Tôi về Mỹ Tho gởi cho chị nhờ chị giúp giùm rồi quay về, mãi đến hai tháng sau, tức là gần cuối năm thì mới nhận tin là đã được duyệt, nhưng nhà in phải nhờ Họa sĩ Duy Hải vẽ bìa lại, vì bìa chỉ in 4 màu thôi nên phải tách màu ra theo kiểu typo chứ không để bản vẽ màu nước được, vì nếu dùng bản vẽ màu nước tuy đẹp hơn nhưng sẽ tốn tiền chụp phim tách màu hơn. Tôi xuống Mỹ Tho tìm gặp Duy Hải và hỏi anh ta cách tách màu typo làm sao để họ dễ in, Duy Hải chỉ cười mà không trả lời, sợ tôi ăn cắp nghề hay sao ấy. Tôi cũng cám ơn anh ấy và ra về, đến Công ty phát hành sách làm các thủ tục hợp đồng cho họ in rồi quay lại Bình Ba, mãi đến đầu năm 1988 thì cuốn truyện mới được in ra, chị tôi mang sách biếu lên và mang tiền nhuận bút lên cho tôi, sau khi trừ tiền Duy Hải vẽ bìa và tiền mua một xấp vải áo dài tặng chị Hoa, giám đôc Công ty phát hành sách đã có công giúp mình, tôi chỉ còn nhận được có 16 nghìn thôi, nhưng đó cũng là một số tiền lớn, vì một chỉ vàng lúc ấy khoảng tám chín chục nghìn tôi không nhớ rõ. Tôi và vợ tôi ôm nhau khóc vì thành quả đầu tiên rất đáng quý này. Và cũng kể từ đó, tôi bớt công việc xay cá mỗi chiều để dành thời gian cho vẽ, chúng tôi bán rẻ cái cối xay cho dượng Út nhà kế bên để dượng xay cá mỗi ngày thế chỗ của tôi.

Tuy họa sĩ Duy Hải không chỉ dẫn nhưng tôi nhìn qua là biết ngay kỹ thuật tách màu liền, thay vì chụp để tách màu tốn tiền thì mình tách màu bằng tay thành 4 bản trên giấy can, mỗi bản một màu, khi in chồng màu lên sẽ như ý muốn, do đó mà tôi bắt tay qua cuốn thứ hai: Vòng quanh thế giới 80 ngày, tôi thực hiện từ A tới Z mà không cần nhờ Duy Hải nữa. Tôi đem bản thảo xuống Mỹ Tho gởi cho chị đưa giùm, chị rất mừng vì có thể tôi sẽ theo được nghề này. Hai chị em đi ăn bún riêu để mừng cho thành quả đầu tiên, thời ấy vẫn còn gian khổ lắm nên đi ăn mà cứ xin thêm rau cho nhiều mới no được. Và cũng kể từ đó, tôi bắt đầu vẽ tiếp Thuyền trưởng 15 tuổi, Chiếc bẫy gấu… Cứ mỗi cuốn tôi vẽ mất hơn một tuần nhưng thời gian chờ đợi được in và nhận tiền nhuận bút hơi lâu nên thu nhập cũng khá hơn chút ít thôi chứ chưa ổn định được, vợ tôi vẫn tiếp tục buôn bán gạo và các thứ nhu yếu phẩm khác. Cuộc sống của gia đình tôi tuy không giàu có nhưng thoải mái hơn trước nhiều.

Nhờ cuốn thứ nhất thứ nhì nên tôi dễ dàng đi duyệt hơn, vì đã có tên tuổi in trên truyện nên Nhà xuất bản họ chắc ăn hơn là họa sĩ mới. Bấy giờ có lần về Mỹ Tho, tôi gặp anh Thiết là anh ruột của Phượng trong Ca đoàn Nữ Vương của tôi trước kia, anh Thiết nghe Hiếu nói là tôi đã xuất bản được mấy cuốn rồi thì mừng lắm, vì anh cũng đang làm sách, anh bỏ tiền ra in và phát hành nên có lời hơn và tiền nhuận bút cũng khá hơn, anh bảo tôi từ nay có vẽ thì cứ giao cho anh, anh trả tiền nhuận bút cho tôi cao hơn họ một chút, và thủ tục in ấn tất cả các thứ để anh lo tất, tôi chẳng phải bận tâm, chỉ việc giao bản thảo và nhận tiền thôi. Tôi thấy được quá nên bằng lòng ngay và từ giữa năm 1988 trở đi tôi chỉ việc ngồi vẽ truyện. Heo cũng đã bán và lúc ấy giá gạo tăng cao quá nên chúng tôi cũng dẹp nấu rượu luôn vì nấu không có lãi, vợ tôi chỉ thỉnh thoảng đi buôn thôi chứ hầu hết ở nhà lo cho gia đình vì con cái tôi cũng còn nhỏ quá.

Từ năm 1989 trở đi, tôi vẽ rất nhiều, có truyện in tới 36 nghìn bản khổ lớn như Hằng Nga Hậu Nghệ chẳng hạn, các truyện khác thông thường từ 20 nghìn bản trở lên, khổ nào tôi cũng vẽ, tất cả các đề tài như Phiêu lưu, viễn tưởng, thần thoại, cổ tích Tây cổ tích Tàu, truyện hài, dân gian… tôi đều đã kinh qua nên nhờ nhuận bút ấy mà tôi lo cho gia đình được. Bận rộn vì công việc mưu sinh nhưng cứ mỗi chiều là tôi lo kèm các con học, bởi mình đã dở dang việc học nên đặt hết tất cả hy vọng vào những đứa con học thay cho mình, mãi đến năm 1990 tôi mới dám mua một cây bút kim Rottring như mong ước với giá bằng mấy cuốn truyện, nhưng nhờ có nó mà công việc chạy hơn, nói chung vì tôi tiếc tiền thôi, tôi thấy bút sắt chấm mực cũng quen nên cứ thế mà làm, có điều sinh hoạt hồi ấy còn khó khăn quá, mỗi ngày chỉ có điện buổi sáng gần 2 tiếng và buổi tối gần 2 tiếng thôi, nếu vẽ ban đêm thì tôi phải chong đèn dầu, do đó mà đôi mắt của tôi xuống cấp kinh khủng. Sau đó tôi dành tiền mua một chiếc Honda Dame cũ để đi về Sài Gòn giao bản thảo cho tiện. Lúc ấy chị cả tôi đã đi xuất cảnh theo diện con lai rồi nên tôi đưa mẹ về ở với tôi, các em đã lớn, đi dạy học nên tự lo được.

Tôi làm việc như cái máy, tiền nhuận bút nhận về cứ giao cho vợ tôi giữ chứ tôi chẳng cần biết được bao nhiêu nữa, đến khi hỏi thì thấy vợ tôi dành dụm nhiều lắm, đem ra cả xâu vàng, thế là chúng tôi quyết định đổ gạch xây nhà để mưa khỏi tạt, vì gỗ chung quanh cũng mục nát cả rồi, tôi nới nhà xây rộng ra phía sau làm bếp, làm thêm gác cho các con, còn tôi làm việc trong phòng ngủ. Bấy giờ truyện của tôi bán cũng chạy lắm nên Hiếu giới thiệu tôi với anh Minh Tiền Giang, lúc ấy là trùm làm sách ở Sài Gòn, và thế là tôi vẽ bao nhiêu anh ấy in bấy nhiêu, anh cứ đặt hàng đề tài và tư liệu là tôi vẽ thôi. Có một khoảng thời gian tôi nhận vẽ thêm cho anh Cứ ở hiệu sách Nguyễn Thị Minh Khai bốn năm chục truyện nữa, nhờ vẽ cho anh Cứ mà tôi gặp được nhiều người cũng làm cho anh như Nhạc sĩ Từ Huy, họa sĩ Đỗ Duy Ngọc, họ thiết kế bìa chứ không vẽ truyện tranh như tôi.

Lúc ấy kinh tế nhà tôi cũng khá ổn định, O Cúc nghe tôi ăn nên làm ra thì mừng cho tôi chứ hôm trước gặp tôi làm heo ở chợ thấy thê thảm quá. Có một lần, O sai anh Tùng đến nhà tôi và mượn tôi 6 chỉ vàng để làm hồ sơ xuất cảnh vì O đang kẹt quá, chúng tôi đưa ngay cho anh đem về vì cái ơn của O đối với tôi lớn quá, tôi đâu quên được. Khoảng nửa năm sau thì O trả lại cho tôi và đưa tiền lãi nhưng tôi cương quyết không nhận. Tới ngày O dượng gần lên đường, O kêu tôi lên và nói với tất cả các anh chị em trong gia đình O là O sẽ cắt cho tôi một miếng đất trước mặt nhà O để sau này tôi thích thì cứ lên làm nhà ở vì vườn tược nhà O dượng rộng lắm. Dượng cầm cây thước bảo con thích chỗ nào thì dượng ra đo cho 5 thước bề ngang, còn dài thì 30 mét rồi. Trong lòng tôi tuy rất mừng nhưng tôi trả lời ngay là cám ơn O dượng, con biết O dượng thương con, nhưng vì O dượng còn các anh các chị đông nên con không dám nhận đâu, để đó cho các anh chị còn ở lại, chứ con ở trên nhà con được rồi. Bởi vậy O dượng thương tôi lắm vì biết tôi không ham của cải.

Bấy giờ ở nông trường có bạn Hải Đáng, cũng là vai em của tôi thôi, Hải làm thầu củi cho nông trường thay vì kêu các đối tác ở Đồng Nai như hồi tôi làm xưa kia. Công việc làm ăn phát đạt lắm. Tuy tôi và Hải cũng hơi thân thôi chứ không như những anh em kia, nhưng Hải rất quý tôi và mỗi lần có điều gì giúp thì Hải luôn ưu ái với tôi, coi tôi như một người anh. Hôm nọ Hải gặp tôi và bảo: Em thấy anh bây giờ cũng ổn định rồi, công việc bây giờ của em cũng đang mở rộng nên em cũng rất cần vốn nhiều, nếu anh có tiền thì hùn với em vài chục triệu rồi anh em mình cùng làm ăn vì công việc thầu củi bây giờ cũng khá lắm, thông thoáng chứ không khép kín như hồi anh làm đâu. Tôi nghe vậy thì tự nghĩ chẳng biết Hải muốn giúp tôi thật hay là vì đang kẹt tiền mà nói thế, lúc ấy tôi cũng đã dành dụm được số tiền ấy rồi, nhưng mỗi lần nghe nhắc đến chuyện củi là tôi chán, tôi nói với Hải để anh về bàn với gia đình xem đã. Rồi tối hôm sau, Minh Ròm là định mức vườn cây, cũng là nhân viên văn phòng tôi lúc trước, đến nhà nói chuyện và khuyên tôi nên hợp tác với Hải đi, có Minh làm vườn cây thì sẽ dễ dàng đếm cây dư ra cho Hải và tôi kiếm ăn, tôi nghe nói vậy thì chán ngán, bởi trong thâm tâm tôi không bao giờ muốn làm điều gì sai trái lần nữa, tôi nhất quyết không chịu hợp tác, hôm sau nữa Minh lại đến hối thúc tôi và động viên tôi cứ yên tâm đi, mọi chuyện có Minh lo. Tôi bèn trả lời thẳng với Minh là Không! Anh đã bị đạp cứt một lần rồi, bây giờ có thuê vàng anh cũng chẳng đạp lần nữa đâu. Minh cứ tiếc rẻ mãi và sau này gặp tôi cứ nhắc nhưng tôi gạt đi. Về sau gặp Hải, tôi cũng nói với nó là anh bận vẽ truyện nên không hợp tác với em được. Dù cho sau này Hải làm ăn phất lắm, thành tỉ phú trẻ nhất vùng, nhưng tôi không ham, bởi vì tôi có quá nhiều kinh nghiệm trong chuyện này rồi, thà cứ ngồi vẽ từng trang kiếm nhuận bút thì đồng tiền mình kiếm được sẽ liêm chính hơn.

Cũng có một thời gian truyện tranh bị ứ đọng nên chậm lại, tôi bàn với vợ tôi là em có thể viết tiểu thuyết được không? Anh thấy Đỗ Thị Thanh Hương viết cũng bình thường mà bán chạy lắm. Vợ tôi lúc ấy đang mang thai đứa con thứ năm, nàng xem qua rồi bảo được, và thế là trong lúc mang thai, vợ tôi bắt tay vào viết tiểu thuyết, cũng được sáu bảy bộ, mỗi bộ hai tập, lúc thì lấy đúng tên mình, lúc thì lấy tên người khác vì người đó đã có giấy phép để in cho nhanh, khỏi phải chờ, nói chung là cái gì làm được cũng làm chứ không ngại, không cần tên tuổi, miễn sao có nhuận bút là được, trong số tiểu thuyết vợ tôi viết có bộ Bụi tình là họ ưng ý nhất, định dựng thành phim nhưng không thành, sau đó họ cũng tái bản bộ này. Thấy vậy tôi cũng viết tiểu thuyết để thử sức mình xem sao, tôi cũng được in 4 cuốn, trong đó có 2 cuốn in 2 tập. Sau đó thì truyện tranh ổn định lại dần và tôi vẽ nhiều hơn, thu nhập cũng khá hơn, tôi mua tivi cho các con, mỗi khi đêm về mở lên là hàng xóm bu lại coi đông lắm, vì thời ấy hiếm nhà có ti vi để xem.

Những ngày cấn thai vợ tôi bị hành dữ lắm, chẳng ăn cơm được, cứ ăn vào là ói ra, toàn nhai gạo sống và ăn chùm ruột, do đó mà người ốm lắm, tôi rất lo là không biết có đủ sức để sanh hay không nữa? Đến gần ngày sinh thì mợ tôi lại kêu về Mỹ Tho để sinh lần nữa, tôi không chịu, bảo rằng 4 đứa trước đứa nào mợ cũng đưa đi sanh, để đứa này con đưa đi sanh cho, nhất quyết không chịu về. Tới ngày sanh, đêm hôm đó vợ tôi kêu đau bụng, tôi chở vợ tôi lên nhà anh Vinh bạn tôi, vì Anh chị cũng đều là y tá cả, với lại nhà cô Huệ là hộ sinh ở sát bên nên lo gì. Đến nửa đêm, vợ tôi kêu đau, chị Thi vợ anh Vinh liền qua kêu cô Huệ và khoảng hai mươi phút sau thì vợ tôi sinh ra một bé gái xinh xắn dễ thương, đó là lần đầu tiên tôi mục kích phụ nữ sanh đẻ là như thế nào, đau không thể tả và khi sinh ra được thì mừng không thể tả. Hôm sau thì tôi đưa hai mẹ con về nhà nằm ngay giường sát bên bàn làm việc của tôi, lâu lâu ghé mặt qua nhìn con vì nó rất dễ thương. Như vậy là sau sáu năm kể từ đứa con thứ tư, nay mới sinh lại. Chúng tôi đặt tên cháu là Ngọc Vân, vì cháu xinh đẹp như mây trời và quyết đây là đứa con út, vì sau năm đứa thì đã quá mệt rồi. (TOP)

Thành công với nghề

Tất cả những gì chúng tôi làm được đều chung một mục đích là có cạp đất đi nữa cùng phải lo cho con ăn học đến nơi đến chốn, vì chúng tôi đã kinh qua nỗi đớn đau và gian khổ quá rồi nên ước mong con cái phải có một tri thức vững vàng và một nền học vấn chắc chắn, do đó nên tuy rất thương con nhưng tôi cũng rất nghiêm khắc với con, cả về học hành và đạo hạnh, tôi nghiêm khắc đến độ có lúc con cái ghét mình và xa lánh mình nữa, những lần như vậy thì tôi buồn lắm, ngồi ủ ê và ứa nước mắt, chỉ mong khi con cái lớn lên sẽ hiểu ra và thương chúng tôi thôi, những lần con hư phải chịu roi vọt, cầm roi đánh con nhưng sau đó lòng đau như xát muối, âm thầm khóc một mình, tuổi thơ tôi cũng đã từng bị anh chị đánh đòn đến tê tái nên hiểu nỗi đau của người bị đòn roi, nhưng lớn lên vẫn thương anh chị vì anh chị đã có công dạy mình nên người, tôi cũng mong các con mình như vậy, vì trong hoàn cảnh đó, chung quanh không thiếu những đứa bằng tuổi các con tôi chơi bời lêu lổng nên tôi muốn các con mình phải cố gắng vươn lên hơn tụi nó.

Tuy bận rộn, nhưng mỗi buổi chiều, tôi vẫn bỏ thời gian ra kềm cặp Toàn là con trai đầu thi lớp 9 rồi thi chuyển cấp, chiều nào tôi cũng hướng dẫn cháu một bộ đề do cậu Dũng nó ở Mỹ Tho gởi lên, và sau khi thi đậu lớp Chín, rồi thi chuyển cấp, tôi mong con mình sẽ đạt được điểm cao để được chọn vào lớp chuyên của trường Nguyễn Du, là trường cấp 3 duy nhất trong vùng, có vào lớp chuyên thì sẽ được học chuyên sâu hơn để có thể thi đậu đại học sau này. Vì thế cứ đến chiều là hai cha con cùng châu đầu vào bộ đề và năm đó, sau khi có điểm thi, hai vợ chồng tôi chạy lên trường dò nguyên một danh sách trúng tuyển mấy trăm người xem ai điểm cao, thì thấy con trai tôi xếp thứ hạng 14, như vậy nếu trường mà chọn lớp chuyên 40 học sinh thì con tôi sẽ chắc chắn được vào. Chiều hôm đó sau khi dò xong, chúng tôi quay về mừng không tả nổi.

Các đứa con sau này như Khoa, Phúc, Hạnh học cũng giỏi lắm, riêng có bé Phúc là năng động và linh hoạt hơn các anh nhiều, lớp Ba lớp Bốn nó được nhà trường cử đi thi kể chuyện và lần nào cũng đoạt giải, được Nhà trường và ngay cả Đoàn đội nông trường đều ưu ái, mỗi lần đi đều có xe nông trường đưa đi vì như vậy họ sẽ có thành tích mà báo cáo phong trào lên cấp trên. Có một lần dưới Huyện tổ chức Hội thi Organ, đoàn đội trên này không biết tìm đâu cho ra người, bởi trẻ em trên này thời ấy đâu có ai biết chơi. Long và Lập liền hỏi tôi: Bé Phúc con anh có chơi organ được không, tôi bảo nhà có đàn mà nó có chơi bao giờ đâu? Họ hỏi nó thì nó tự tin bảo rằng được, để con nhờ ba con tập cho. Và thế là họ đăng ký cho nó đi thi. Lúc tôi biết chuyện thì hết hồn vì nó gan quá, nhưng lỡ đăng ký rồi nên tập cho nó một bài, đâu chỉ một hai ngày thôi mà nó cũng chơi được bài Con đường đến trường bằng cả hai tay, nghe cũng tàm tạm, vốn liếng chỉ được có nhiêu đó thôi, thế mà cũng hăm hở đi thi. Đến khi thi thì ngờ đâu ngoài việc chơi một bài tự diễn còn phải chơi một bài bắt buộc nữa, tôi nghe kể lại thì khi thi bài tự diễn, nó đánh cũng đạt lắm, y như lúc tập ở nhà vậy, nhưng khi thi bài bắt buộc, họ đưa cho nó một bản nhạc mới toanh, nó nhìn vô đánh sai tùm lum khiến ban giám khảo phải cười lăn, bởi nó có biết gì đâu, chỉ biết Đồ rê mi fa sol là quá lắm rồi, làm sao như những đứa khác ở Bà Rịa theo học các lớp nhạc được? Ấy thế mà tối hôm đó, xem trên tivi đài Vũng Tàu nghe nói có tiết mục Hội thi Organ, chúng tôi mừng lắm, canh đến giờ để xem coi nó có được chọn vào chương trình truyền hình này không? Hóa ra là có, dòng chữ giới thiệu Nguyễn Minh Phúc đàng hoàng làm chúng tôi sướng mê tơi. Mấy người trong xóm họ xem ké ti vi cũng thấy, ai cũng ồ lên chúc mừng con ông Lân được lên tivi kìa. Thì ra trong lúc thi, người ta đã ghi hình sẵn rồi mà mình không biết, khi thi xong thì họ chọn ra tiết mục nào được thì đưa lên truyền hình, do đó tuy không đoạt giải gì nhưng được thế là vui lắm rồi.

Năm ấy, sau bao nhiêu lang bạt và ăn chơi nhậu nhẹt đủ thứ, Lâm là em út tôi được chị cả tôi động viên và tạo điều kiện để nó lập gia đình, may ra thì mới chịu khó làm ăn đàng hoàng được. Chị cả tôi đi Mỹ đã được mấy năm nên gởi tiền về giúp cho nó làm vốn và dựng nhà. Anh em lúc ấy thì chỉ có tôi là khá ổn định chứ anh ruột tôi ở Cai Lậy cũng khổ cực lắm, do đó mà tôi bỏ tiền ra mua một lô đất trong Bình Đức tặng cho nó như là một món quà cưới, lô đất này rộng như một nền nhà công nhân vậy, tôi sang lại của anh Rồng hai chỉ vàng, còn nhà cửa cây gỗ thì do chị tôi gởi tiền về cho rồi. Tôi và mẹ tôi đến gặp bên nhà gái lo các nghi lễ cho nó và đám cưới tổ chức ngay tại nhà tôi. Sau đám cưới thì nó đưa vợ về ngôi nhà đã dựng sẵn và làm đủ thứ nghề, dù sao thì nó xây dựng được gia đình ổn định thì mẹ tôi yên tâm rồi.

Cũng năm 1993 ấy, việc vẽ truyện tranh của tôi tiến triển rõ rệt, sau bộ truyện Hãy Đợi Đấy của tôi được in và quảng cáo trên truyền hình, dưới tôi đêm nào người ta cũng coi ti vi và lấy làm ngạc nhiên khi một người chân đất xứ cao su đất đỏ xa xôi mà lại có tên trên truyền hình, tôi cũng mừng lắm và kể từ đó tôi bắt đầu có chỗ đứng trong giới họa sĩ truyện tranh trong nước. Một lần nọ, tôi lên Sài Gòn giao bản thảo truyện Tiểu Long Nhân thì gặp Ngọc Linh, anh cũng là một họa sĩ truyện tranh như tôi nhưng thực lòng mà nói, anh muốn có tiền nhanh nên sao chép copy nhiều thứ quá chứ không tự sáng tác, hầu như tất cả các truyện của anh đều xào nấu từ các truyện tranh của Mỹ và của Tàu, vì anh ở Sài Gòn nên có nhiều điều kiện tìm kiếm tư liệu hơn tôi, ngay truyện Tiểu Long Nhân của tôi, anh cũng copy cắt xén tất cả 100% rồi xào lại thành một tập truyện khác để ăn tiền. Tôi tức lắm, thấy cuốn truyện lem nhem rời rạc thế nên tôi gặp anh và bảo nếu anh làm thế thì cứ đề tên anh chứ sao lại đề tên tôi? Anh xin lỗi tôi và bảo rằng họ cần gấp nên xào xáo lại để in ra cho kịp.

Việc đã xảy ra rồi nên tôi cho qua không nói nữa. Lần sau gặp anh thì anh mời tôi uống cafe và bảo tôi có mối làm ăn mới, tôi hỏi đó là gì thì anh kêu tôi vẽ truyện sex cho nước ngoài, mỗi truyện chỉ cần 3 trang khổ lớn thôi và mỗi trang họ trả 100 đô, tôi xem qua truyện anh vẽ sex thì rùng mình, y như phim con heo rẻ tiền liền từ chối ngay, anh bảo lo gì vì cũng có những họa sĩ khác như KK cũng vẽ vậy và đưa cho tôi xem, tôi nhận ra ngay nét vẽ của đồng nghiệp bèn cười cười hỏi anh: Này, biết rằng tiền cao đó nhưng ông vẽ mà không sợ con cái nó biết nó coi ông ra gì? Anh ta bảo thì mình vô phòng đóng cửa lại vẽ, làm sao nó biết được? Tôi bèn bảo anh: Nói thật với ông, tiền thì tôi cũng cần thật, nhưng không cần đến nỗi phải làm chuyện hèn hạ và xấu xa này! Từ đó anh ta biết rõ nhân cách thẳng thắn của tôi và không mời mọc tôi nữa, hóa ra sau này tôi biết, không những anh mời mọc tôi mà còn mời cả họa sĩ Đức Lâm làm chuyện này, nhưng Đức Lâm cũng từ chối thẳng thừng làm anh ta bẽ mặt.

Sau một loạt hàng trăm cuốn cổ tích tây ta đủ kiểu thì anh Minh Tiền Giang đặt hàng tôi vẽ một bộ truyện mới mang tên Voltron từ hai cuốn băng video của Nhật gởi về, tôi dựa theo đó mà phóng tác thành 4 tập gởi lên cho anh để anh mang đi Nhà xuất bản xin giấy phép, Thiên Vương là trợ lý của anh thấy tên Voltron khó đọc nên đổi tên thành Dũng sĩ Hesman cho dễ đọc hơn, còn có nghĩa là He is man, nghĩa là một rôbôt khổng lồ nhưng có tính năng như con người. Sau 4 tập đầu bán rất chạy, anh Minh hỏi tôi có thể tự sáng tác tiếp nữa được không? Tôi trả lời rằng được, và thế là theo yêu cầu, tôi sáng tác đến tập 10 rồi 20 rồi 30… rồi 100 với công suất mỗi tuần 1 tập, tôi tự dựng kịch bản và vẽ từ A đến Z, chỉ việc mang lên duyệt và in thôi. Truyện vẫn bán rất chạy. Lúc đó họ sợ tôi mất thời gian nên bảo tôi cứ ở nhà vẽ, mỗi tuần 2 lần, trên Nhà xuất bản sẽ cử người xuống nhà tôi lấy bản thảo và trả nhuận bút cho tôi, tôi phải làm việc như một rôbôt, mỗi tuần phải tự tạo cốt truyện, viết chữ vào và vẽ 72 trang đồng thời vẽ luôn cả bìa màu hoàn chỉnh.

Ngày nào tôi cũng phải thắp đèn dầu làm việc từ ba bốn giờ sáng tới khi có điện nông trường bật lên, tối 9 hoặc 10 giờ mới ngủ. Công việc ròng rã hơn 3 năm trời, hầu như tôi chỉ ở nhà làm việc suốt ngày và cuối tuần đi lễ Nhà thờ thôi, không hề bước chân ra khỏi nhà, vì đang vẽ tập này thì phải nghĩ ra cốt truyện của tập sau để note lại chuẩn bị trước, ngày này qua ngày khác, tập này qua tập khác cứ theo định mức như vậy suốt mấy năm trời, lúc đó tôi không điên mới là lạ. Người đọc và các nhà xuất bản khác cứ tưởng truyện này của Nhật, mãi đến sau này họ mới biết tác giả là một người Việt Nam, báo chí viết rằng Chuyện viễn tưởng người hùng không gian vũ trụ nhưng lại được ra đời từ một vùng quê chưa có điện là thế, mãi đến tập thứ 159 mới ngưng, sau đó lại chuyển sang đề tài Siêu nhân Việt Nam do tôi tự sáng tác toàn bộ thêm 52 tập nữa, rồi X-men, Samurai và hàng loạt truyện khác. Các con tôi lúc ấy còn nhỏ và cả vợ tôi nữa cũng phải lao vào hỗ trợ tô đen hoặc vẽ phụ tôi thì mới giao đúng hạn để kịp phát hành. Quả là một thời kỳ làm việc khủng khiếp, nhưng thực lòng nhờ đó mà tôi có đủ kinh tế nuôi dạy con cái và lo cho gia đình, tất cả chỉ nhờ vào nhuận bút. Và một điều rất hạnh phúc cho tôi là tuy cả nhà bận sấp mặt như thế nhưng các con tôi vẫn học rất giỏi và rất ngoan, con trai thứ nhì của tôi là Khoa, thi tốt nghiệp cấp 2 đạt loại giỏi nên được tuyển thẳng vào lớp chuyên trường Nguyễn Du mà khỏi qua thi tuyển, Phúc và Hạnh cũng vậy, đi học luôn đứng đầu lớp, điều đó là động lực rất lớn cho tôi để tôi có thể miệt mài trên trang giấy vẽ mà không phải lo lắng gì.

Công việc quay cuồng như thế nên việc nhà vợ và các con tôi bao hết cho tôi để tôi có thời gian vẽ truyện. Tội nghiệp hai đứa con trai đầu, ngày nào đi học về cũng phải cố gắng quay nước sớm lên chứa đầy cái hồ một khối nước để cả nhà chi dùng rồi mới được đi chơi. Khi Bình Ba được kéo điện về, việc đầu tiên là tôi mua một  cái bơm nước Liên xô để bơm nước lên hồ chứ thương các con quá, hôm ráp xong bơm nước thì chị kế tôi từ Mỹ Tho lên chơi, thấy tôi vừa đóng cầu dao điện cho nước bơm lên thì chị tôi đứng ngay ngạch cửa mà khóc, tôi hỏi vì sao thì chị tôi nói lâu nay lên nhà em chơi, mỗi lần tắm không dám xài nước vì thấy các cháu quay mệt quá, nay thấy có bơm các cháu đỡ khổ thì mừng quá nên mới khóc đó thôi. Sau đó, vợ chồng tôi xuống Vũng Tàu mua thêm chiếc xe máy Angel 80 để nếu có việc đi Sài Gòn hay đâu đó thì cũng dễ dàng hơn, thời đó mới ra, chiếc xe này mắc lắm, phải tới 1600 đô, nhưng vì thích quá nên chúng tôi mua luôn, bù lại cho những ngày gian khổ đạp chiếc xe đạp cọc cạch.

Nhờ có điện nên anh Minh sắm sửa cho tôi ti vi đầu máy tủ lạnh bếp ga đều đủ cả, vì vậy mà tôi biết anh ấy in bộ truyện này rất có lãi, nên anh rất rộng rãi với tôi, cho dù nhuận bút của tôi lúc đó cũng khá, đã trang trải mọi thứ trong gia đình và dành dụm được một số vốn kha khá nên cũng đã mừng lắm rồi, nhưng về sau tôi biết được khoản lãi ròng anh thu được nhờ bộ Hesman và những bộ truyện khác của tôi lên đến gấp mấy chục lần tôi, nhờ đó mà anh trở thành tỉ phú, mua biệt thự, ô tô và thành lập công ty riêng, nhưng tôi không vì đó mà động lòng tham, vì mình biết việc mình, còn người khác kinh doanh thì lời họ hưởng, lỗ họ chịu thôi. Anh Minh cũng biết tính tôi thế nên anh quý tôi lắm, hễ có dịp là anh ghé xuống chở vợ chồng tôi đi Vũng Tàu chơi ăn uống rồi về, tôi cần gì anh cũng đều đáp ứng, lại còn phụ tiền giúp tôi bắt cái điện thoại để liên lạc với Sài Gòn cho dễ dàng hơn. (TOP)

Lên Ngãi Giao

Khi tôi vẽ được trên 100 tập Hesman, dù cho lúc ấy Bình Ba đã có kéo điện về rồi, nhưng tôi vẫn quyết định dời nhà đến nơi khác có điều kiện sinh hoạt khá hơn để thuận lợi cho công việc của mình. Tôi hỏi vợ tôi lâu nay dành dụm được bao nhiêu thì vợ tôi bảo có thể đủ tiền để mua đất làm nhà ở nơi khác rồi, do đó mà vợ chồng tôi nhất trí dời lên Ngãi Giao là thị trấn gần đó sinh sống, dù sao cũng có nhiều điều kiện khá hơn là ở Bình Ba, nơi tôi đã chịu tủi nhục đắng cay vinh quang thị phi đều đủ cả, xa được nó thì cũng như người ta được khoác một chiếc áo mới để chôn đi quá khứ rách rưới và đau xót của mình, vì nhiều khi nghĩ lại những chuỗi ngày tủi nhục trước đây, lòng vẫn còn đau lắm, cho dù sau này người ta đã quên đi, nhưng cái vết thương đời tôi vẫn còn âm ỉ, lâu lâu lại nhói lên làm mình muốn rơi nước mắt, may mà Chúa đã nhìn lại và ban ơn cho chúng tôi được như ngày này. Lên Ngãi Giao thì con tôi đi học gần hơn, có điện thường xuyên hơn và điều kiện liên lạc tốt hơn.

Đầu năm 1996, chúng tôi gom góp tiền lên Ngãi Giao mua được hơn 6 sào rẫy và mua một miếng đất mặt tiền xây nhà của anh Duẫn, miếng đất mặt tiền 5 cây rưỡi và miếng đất rẫy 10 cây rưỡi, vị chi là 16 cây vàng, đó là chưa tính đến xây nhà phải thêm mười mấy cây nữa chứ chẳng ít, rồi lại lo mua giống cà phê xây dựng khu vườn sau, mọi thứ một tay vợ tôi chu toàn cả, tôi chỉ việc ngồi làm mà thôi, của chồng nhưng công vợ là vậy. Tôi cũng không ngờ là mình có được số tiền đó, vì vợ tôi rất cẩn thận và tiện tặn, tôi làm được bao nhiêu thì nàng lo gom lại mua vàng các thứ để dành, đời này có một người vợ chung thủy và chu toàn quán xuyến như vậy không phải là dễ, do vậy mà tôi tin tưởng và yêu thương vợ mình lắm. Vì vẫn đang phải vẽ bộ Hesman cho kịp nên tôi giao toàn bộ cho Tuấn là nhà thầu sau khi đã tính toán chi li tiền công và vật liệu xây dựng các thứ, hàng ngày tôi chỉ rảo lên xem một chút để coi Tuấn có làm đúng kỹ thuật hay không mà thôi, rồi lại quay về vẽ tiếp chứ không có đủ thời gian sát cánh với nhà thầu, chỉ có vợ tôi lên thường xuyên hơn. Tuấn thấy có mặt vợ tôi thì không dám làm liều, phải làm theo đúng bản vẽ kỹ thuật và đúng các loại vật liệu tôi và Tuấn đã thống nhất từ trước, cứ mỗi tuần xuống nhận tiền một lần về thanh toán cho nhân công.

Hơn một tháng sau thì nhà xây xong, sau khi thanh toán hết thì chỉ việc nhận chìa khóa nhà vào mà ở vì đã đầy đủ cả rồi, chỉ còn thiếu đồ đạc trong nhà thôi, phòng vợ chồng tôi thì đã có cái giường gõ đặt đóng từ Bình Ba rồi nên tôi đặt thêm anh Lực đóng giường cho các con ở trong hai phòng riêng, rồi mua tủ và bàn học cho từng phòng, bàn ghế salon gì từ từ sắm sau. Chúng tôi như thay da đổi thịt toàn diện, các con tôi đều vui vì từ nay nhờ nhà đúc bê tông nên có cái sân thượng, chiều chiều lên chơi mát lắm. Dời nhà lên đây rồi, ngôi nhà dưới Bình Ba tôi vẫn đóng cửa để đó chứ không sang lại cho ai cả, mẹ tôi vẫn lên ở chung cùng chúng tôi, còn hai đứa em thì đã yên phận rồi.

Tôi thì cứ bố trí cái bàn trong phòng khách ngồi vẽ liên tục ngày này sang ngày khác, nhìn vợ con như thế thì ấm lòng lắm rồi, đã thoát khỏi những ngày tháng bỉ cực khi xưa, nhiều khi nhớ lại vẫn rùng mình, rõ ràng tất cả đều do Chúa sắp đặt cho tôi có việc này việc khác để được có ngày hôm nay, mặc dù tôi có khả năng, nhưng nếu không có ơn Chúa giúp sức thì tôi không thể có được công việc và cơ ngơi như thế này, một gia đình ấm êm con cái ngoan ngoãn như thế này được. Chúng tôi tin tưởng vào Chúa nhiều hơn, và phó thác mọi sự cho Ngài. Chúng tôi mừng quá nên mời cha Công là cha linh hướng của tôi ở Suối Nghệ đến làm phép nhà cho tôi, cha đến làm phép khi chưa kịp sắm bàn ghế nên sau đó cha ngồi dưới nền nói chuyện cho vui thôi, cha mừng cho chúng tôi lắm vì cha biết những gì gian truân chúng tôi đã trải qua rồi, cha cũng thương chúng tôi lắm, đi đâu cũng bảo Thảo là con của cha.

Lên Ngãi Giao lúc ấy chưa có nhà thờ, chỉ có một nhà nguyện nhỏ cấp Giáo họ mà thôi, mỗi tuần chỉ có một thánh lễ vào chiều Thứ Bảy như ở Bình Ba, nhưng vẫn có ca đoàn hoạt động, tôi xin vào ca đoàn và anh Nhàn ca trưởng là người ở Bình Giã, biết tôi là ca trưởng trước đây ở Bình Ba nên vui vẻ giao ca đoàn lại cho tôi, còn ca đoàn ở Bình Ba thì tôi giao lại cho anh Vinh phụ trách, thỉnh thoảng lễ lớn tôi mới về phụ đệm đàn cho anh ấy thôi, vì Cường lúc ấy mới biết đàn nên còn chưa quen lắm. Thấy tôi là người lạ mới về nhưng vui tính nên các em ở Ngãi Giao tham gia đông lắm, ca đoàn mỗi lúc một phát triển và vững mạnh, mặc dù mỗi tuần chỉ hát một lễ nhưng tôi vẫn tập cho các em những bài hợp xướng rất hay. Chúng tôi họp lại và thống nhất đặt tên ca đoàn là Ca đoàn Thánh Linh, mừng bổn mạng vào ngày lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống hằng năm.

Công việc vẫn chạy và ổn định như thường lệ, chúng tôi sắm bàn ghế các thứ và vài tháng sau, xây tiếp lên một căn lầu ở trên để tôi lên đó ngồi làm việc cho rộng và thoáng hơn. Chúng tôi thuê một đứa cháu của chú Lợi tên là Long ở Quảng Bình vào giao cho nó xây dựng khu vườn rẫy phía sau nhà dưới sự chỉ đạo của vợ tôi, nào là dọn dẹp cây điều cũ, đào lỗ trồng cà phê và tiêu, xen kẽ sầu riêng các thứ,. đồng thời mua cọc và lưới B40 về rào kín hết khu đất rẫy ấy. Rẫy nhưng chúng tôi cũng đào giếng và xây một ngôi nhà để giữ đồ máy bơm nước các thứ, kéo điện ra ngoài rẫy luôn nên thỉnh thoảng Long nó ngủ lại ngoài rẫy để giữ đồ, còn thường thì nó ngủ trong nhà với gia đình tôi. Long nó không biết chữ, chỉ biết làm rẫy rất tốt nên chúng tôi an tâm về cái rẫy. Khoa nó hay ra chơi và dạy cho Long một thời gian thì nó biết đọc rồi, nó mượn mấy cuốn tiểu thuyết của vợ tôi viết và đọc say mê, gương mặt rạng rỡ lắm vì đã biết chữ. Giếng nước tôi đào sau rẫy gặp may nên nhiều nước nhất vùng chung quanh đó, tôi lại thuê người khoét rộng phía dưới ra để chứa nước được nhiều nên vào mùa khô, chúng tôi không lo thiếu nước để tưới. Mỗi lần gia đình tôi đi chơi đâu thì cũng có Long đi theo, nó như một người anh của các con tôi vậy. (TOP)

Con vào Đại học

Năm dọn lên nhà mới thì cũng là năm Toàn con trai đầu của tôi thi Tú tài và thi Đại học, cho nên chúng tôi lo lắm, mong cho cháu trưởng thành và đạt được ước nguyện. Thời ấy thi Tú tài thì không khó lắm nhưng thi Đại học thì vô cùng gian nan vì họ tuyển không nhiều. Tôi suốt ngày đêm ngồi vẽ nên chỉ biết khoán trắng cho con chứ không theo dõi việc học tập của nó được, nhưng vì nó cũng rất ý thức cho tương lai của mình nên tôi cũng bớt lo phần nào, chỉ mong nó là đầu tàu của các em mà đạt được kết quả tốt thì các em của nó sẽ nhìn vào đó mà noi theo. Mộng ước của nó là làm Kiến trúc sư nên tôi mừng lắm, bởi ngày xưa tôi cũng muốn theo ngành kiến trúc vô cùng mà ngày thi không đủ tiền xe để lên thi, cho nên tôi vui sướng không gì tả nổi, thế là cái mong ước con tôi sẽ học thay cho tôi sẽ thành hiện thực nếu như nó trúng tuyển. Tôi chỉ hướng dẫn cho nó vẽ tĩnh vật một hai buổi duy nhất thôi vì tôi đâu có thời gian, đợi cho nó thi Tú tài xong rồi lên Sài Gòn luyện thi vẽ cũng được. Vì sức học mình là dân tỉnh lẻ chứ đâu phải là dân thành phố có nhiều điều kiện hơn, nên nó cũng phải trừ hao, nộp đơn Đại học Kiến trúc rồi nộp đơn thêm hai trường nữa, đó là Khoa Kỹ thuật in thuộc Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thủ Đức và Trường Mỹ Thuật Trang trí Đồng Nai.

Đợt thi Tú tài, có thêm 3 người bạn của nó đến trọ trong nhà để đi thi và sau những ngày thi căng thẳng thì nó đậu với số điểm vừa đúng là 32, nhưng không đạt loại giỏi vì bị khống chế môn Văn, như thế cũng đã là quá mừng rồi. Sau khi biết tin thi đậu, nó nghịch lắm, nó với Long làm rẫy nhà tôi mang mấy cuốn tập Sử Địa Công dân lên trên sân thượng đốt sạch, bảo rằng thôi thì từ nay giã từ mấy môn này, dành sức cho Văn, Toán và Vẽ. Nghỉ ngơi ít hôm, tôi gởi nó lên nhà anh Minh ở Sài Gòn xin cho nó ở trọ một tháng để luyện thi Vẽ kiến trúc. Anh chị Minh ấy tốt với tôi lâu nay rồi, nhà lại rộng mấy tầng lầu nên đồng ý ngay. Tôi cho nó đưa chiếc xe máy Honda cũ lên để đi luyện thi và sau này đi thi cho tiện. Thời ấy đã có điện thoại bàn rồi nên có gì liên lạc cũng nhanh chóng.

Trước ngày thi đầu tiên ở trường Đại học Sư phạm Kỹ Thuật Thủ Đức, Toàn nó phải lên trường nhận phòng và phiếu báo danh, sáng sớm hôm đó nó chạy xe máy lên, khi đến Tân cảng dưới cầu Sài Gòn, nó dừng lại mở cái máy walkman ra để vừa đi vừa nghe nhạc, mới nhét cái earphone vào tai thì gặp hai thằng cướp lao đến xô ngã nó để cướp xe và giật túi xách của nó, nhưng may là cái xe không nổ máy, nó tri hô lên thì bọn cướp bỏ chạy mất, để cái xe lại. Sau đó nó mới hoàn hồn gọi điện về báo sự việc cho chúng tôi biết là mất hết giấy tờ trong túi xách rồi, vợ tôi phải lên trường xin lại bản sao bằng tú tài và đưa lên cho nó gấp, vừa kịp hôm sau thi. Chúng tôi lo lắm vì sau vụ cướp xe kia nó có còn bình tĩnh tập trung làm bài không nhưng nó cứ tỉnh bơ, và khi điện lên hỏi nó làm bài thi được không thì nó bảo là được nên chúng tôi cũng khá yên tâm. Đến ngày thi vào Kiến trúc cũng vậy, chỉ một mình nó tự lo trên ấy chứ chúng tôi bận làm việc dưới này nên không lên được, rồi thi vào Trường Mỹ Thuật cũng vậy, hỏi nó thì nó cứ bảo ba má cứ yên tâm.

Sau khi thi xong cả 3 trường, Toàn quay về nhà chờ đợi kết quả, thực lòng thì chúng tôi cũng run lắm nhưng nghe nó bảo là Kiến trúc thì con chưa chắc ăn lắm nhưng Đại học Sư phạm Kỹ thuật thì chắc chắn con sẽ đậu, vì coi bài giải trên báo nên con biết số điểm của mình rồi, như vậy thì dù sao cũng đã biết chắc chắn nó sẽ trụ lại được một trường đại học rồi, nhưng mộng của nó và của chúng tôi là Đại học Kiến trúc nên mong mỏi ghê gớm. Đến ngày có kết quả thì đúng như nó tính, nó đậu trường SPKT dư mấy điểm so với điểm chuẩn, còn Kiến trúc thì chưa có. Tôi gọi điện lên nhờ Vương theo dõi từng ngày một xem kết quả kiến trúc thế nào, mấy hôm sau vào buổi tối, Vương gọi điện cho tôi và bảo là Thái Toàn đậu vào Kiến trúc rồi, dư một hai điểm gì đó, cả nhà chúng tôi sung sướng reo lên, Toàn nó cũng mừng nhưng không lộ ra, chờ một hai hôm sau báo có đăng danh sách thí sinh trúng tuyển Đại học Kiến trúc, nó mua về và thấy có tên mình, lúc đó nó mới mừng thật sự, cầm tờ báo hét lên sung sướng. Đã chắc ăn hai trường rồi nên trường thứ ba nó lên xem kết quả cho biết thôi, vì chắc chắn nó sẽ chọn Kiến trúc, ngờ đâu trường thứ ba nó cũng đậu với số điểm rất cao, hạng nhì hạng ba gì đó. Sau này trường Mỹ Thuật ấy gởi giấy về kêu nó lên học nhưng nó không lên vì nó đã chọn Đại học Kiến trúc rồi.

Được đứa con đầu tiên có kết quả tốt đẹp như vậy, chúng tôi mừng ghê lắm, vì đó sẽ là một cái đà cho những đứa em về sau vươn lên, và quả thật những năm sau đó, Khoa, Phúc và Hạnh lần lượt đậu vào các trường đại học uy tín khiến ở Ngãi Giao ai cũng bảo là giàu có tiền bạc tới đâu cũng không bằng ông Hùng Lân, bởi mấy đứa con của ổng học giỏi quá. Thầy cô trong trường ai cũng khen ngợi mấy đứa con của tôi, làm chúng tôi nở mặt nở mũi lắm. Tuy nhiên, dù vui sướng vì thành quả của con mình bao nhiêu thì tôi lại phải gắng sức làm việc bấy nhiêu, vì bước đường nuôi con học đại học không phải dễ dàng gì, bao nhiêu tiền của chúng tôi đổ ra tất cả cho nhà cho rẫy rồi, giờ chỉ còn biết cố gắng vẽ xong từng cuốn một để có nhuận bút nuôi con thôi. Chúa vẫn thương và ban cho tôi công việc đều đều, hết bộ này tới bộ khác, hết làm cho anh Minh lại làm cho người khác, công việc cứ thế mà xoay vần, sau vài năm thì chúng tôi lại dành dụm mua được một miếng đất mặt tiền gần bên nhà tôi nữa.

Sau khi Toàn thi đậu, đến ngày nhập học, tôi mua cho cháu một chiếc xe đạp đua để nó đi học, bởi lúc đó, chiếc Honda cũ chúng tôi bán rẻ lại cho chị kế tôi để chị kế tôi lên về thăm mẹ cho dễ dàng hơn rồi. Chúng tôi dự định sau khi cháu tốt nghiệp đại học thì mới sắm xe cho cháu chứ bây giờ thì chưa, vì chúng tôi quan niệm cần phải rèn con cái biết chịu cực cho quen chứ không buông tuồng thả lỏng, vì nhà mình đâu có giàu có gì, còn nguyên một bầy em sau này nữa, do đó mà chi tiêu của nó ở Sài Gòn chúng tôi cũng cấp cho vừa đủ để nó biết quý trọng đồng tiền, với lại tôi cũng có đâu mà cho nhiều? ngồi vẽ muốn còng lưng tối mắt đủ gánh gồng cả gia đình như thế này là may lắm rồi.

Noel rồi tết năm Đinh Sửu 1997 đến, gia đình chúng tôi bấy giờ đã ổn định rồi nên vui lắm. Khi ấy tôi đã chuyển sang vẽ bộ Siêu nhân Việt Nam nên có giãn cách thời gian ra một chút, mỗi tuần một cuốn nhưng nếu có trễ đi một chút cũng không sao, hàng tuần vẫn có người trên Sài Gòn về lấy bản thảo, thỉnh thoảng cần chuyện gì thì tôi mới trực tiếp lên thôi. Thời gian ấy công nghệ đã phát triển hơn, thấy người ta bắt đầu sử dụng máy tính nhiều mà tôi vẫn mù tịt, mong cho có thời gian mà học nhưng công việc cuốn hút nhiều quá nên đành phải chịu, bởi tôi nghĩ rằng muốn thành công với nghề thì phải theo kịp đà phát triển công nghệ mới được. Lúc ấy chị kế tôi ở Mỹ Tho sau khi đã tính toán tiền trợ cấp, thấy về hưu non thì có lợi hơn nên chị tôi quyết định xin nghỉ để lên trên này ở với mẹ tôi chăm sóc cho tiện, thế là chị cả tôi bàn là để tôi sang nhượng lại căn nhà dưới Bình Ba cho mẹ và chị tôi về ở, dưới đó có gia đình em gái tôi và em trai tôi, chị tôi trả tôi 2000 đô, tương đương với 4 cây vàng và tôi cũng đồng ý, mặc dù chi phí xây ngôi nhà ấy các thứ mới xong thì cao hơn nhiều, nhưng để lại cho chị mình và mẹ mình nên tôi không so đo gì. Thế là từ ngày ấy mẹ tôi về ở với chị kế tôi ở ngôi nhà cũ của tôi ở Bình Ba, hàng tháng chị cả tôi gởi tiền về giúp nên cũng ổn định được.

Tôi vô cha Thịnh ở Xuân Sơn chơi thì thấy cha sắm một dàn máy tính, nghe cha nói chuyện thì đó chính là công nghệ tương lai mà con người không thể thiếu được. Tôi nhìn thấy mê quá nên về bàn với vợ tôi là nhà mình nên mua một dàn máy tính, trước để học cho biết vì con cái mình nhiều, thế nào tụi nó cũng phải học, với lại tôi có chiếc máy tính thì cũng giúp cho công việc ít nhiều, tuy rằng lúc đó chẳng biết giúp gì, vì tôi vẫn vẽ truyện bằng tay, viết chữ bằng tay chứ chưa có gì thay đổi cả. Vợ tôi không chịu nhưng tôi thuyết phục mãi vì mới có tiền bán nhà đây rồi, mình có sắm dàn máy thì nó cũng còn đó, lại học thêm được nhiều điều cho công việc tương lai nữa, rốt cuộc thì vợ tôi cũng đồng ý. Tôi tham khảo giá cả trên báo chí và quảng cáo thấy máy tính do Việt Nam ráp thì rẻ hơn là máy nguyên bộ của hàng hiệu, nhưng mình chưa biết xài lỡ máy hư thì sao, thế nên quyết định mua hàng hiệu luôn, tuy tốn nhiều tiền hơn nhưng ít hư hỏng và được bảo hành lâu hơn. Thế là cả hai vợ chồng xuống Vũng Tàu và tìm mua nguyên một dàn máy xịn lúc bấy giờ hiệu Compaq, máy in màu HP và máy scan màu Genius cùng các thứ linh tinh như loa... hết đúng 2000 đô, bằng tiền cả căn nhà vừa bán. Vợ tôi choáng váng vì thấy tốn tiền quá nhưng tôi cứ an ủi là chúng ta sẽ làm bù lại được thôi, miễn sao có mà học với người ta cho biết chứ không thôi mình lạc hậu. Bước đầu tôi chẳng biết mở cái đĩa mềm ra làm sao nữa, nhưng nhờ có Lê Hữu Hoàng gần nhà tôi, học sau Khoa con tôi một lớp, nó có mua máy tính rồi nên rành lắm, lên trên nhà tôi chơi và hướng dẫn tôi nên tôi mới biết. Tôi học làm đồ họa trên máy nhanh chóng và kể từ tập 20 Siêu nhân Việt Nam trở đi, dùng máy tính làm chữ màu trên bìa nên nhìn thấy phong phú hơn. Từ đó về sau, nếu có gì không biết về các file hệ thống là tôi điện xuống hỏi Hoàng, còn phần mềm thì ngoài bộ Office ra, tôi tự học thêm Encore để viết nhạc, HTML Help và Thiết kế Web chứ chưa học Photoshop. Mãi về sau này, Vương khuyên tôi nên tìm hiểu về Photoshop sẽ giúp ích cho việc làm bìa lắm nên tôi mới học, có gì không biết thì hỏi con tôi, ngoài ra tôi cũng lại tự học thêm phần mềm thiết kế phông chữ nữa vì biết rằng nó sẽ giúp ích cho mình rất nhiều sau này.

Rồi qua năm 1998, con trai thứ nhì của tôi là Hoàng Ân cũng thi đậu Tú tài dễ dàng, vẫn dư điểm đạt loại Giỏi nhưng bị khống chế môn Địa nên không được tuyển thẳng vào Đại học thôi. Cháu thi vào 2 trường ĐH Bách Khoa và ĐH Kiến trúc, khoa Mỹ thuật công nghiệp chứ không phải khoa Kiến trúc công trình như Toàn. Đến ngày thi, vì có anh của nó ở trên nên tôi không lo lắm, cả hai trường nó đều làm bài được nhưng trường Kiến trúc thì nó làm tốt hơn, đến ngày có kết quả, nó đậu Khoa Kỹ sư Xây dựng ĐH Bách Khoa rồi nên chúng tôi yên tâm, chỉ còn chờ kết quả bên trường Đại học Kiến trúc nữa mà thôi, lúc đó chúng tôi đăng ký đi hành hương Đức Mẹ La Vang kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra rồi thì xem báo thấy nó bị rớt, nó buồn và ngạc nhiên lắm vì bài thi ở trường Kiến trúc nó làm tốt hơn mà, vì sao lại như vậy được? Chúng tôi an ủi nó vì dù sao cũng đậu vào Bách Khoa là cũng ngon quá rồi chứ người ta mong mà cũng không được nữa đó. Chúng tôi lên đường, lúc ở ga xe lửa, tôi đọc báo thấy họ đưa tin là Khoa Mỹ thuật Công nghiệp Đại học Kiến trúc bị ghép phách sai, nên kết quả sẽ thay đổi sẽ có trong ngày mai. Khi chúng tôi ra đến Huế, mua ngay tờ báo và thấy kết quả con mình thi đậu rồi, chúng tôi mừng quá gọi điện về nhà thì nó bảo nó cũng mới mua báo và biết rồi, và thế là nó chọn học bên trường Đại học Kiến trúc, trong lúc Toàn anh nó cứ muốn nó học bên Bách Khoa để sau này ra trường, hai anh em sẽ làm việc chung phù hợp hơn, nhưng nó không chịu, cứ một mực học Kiến trúc mà thôi. Chúng tôi tôn trọng quyết định của các con, vì chính nó sẽ lo cho tương lai của nó chứ chẳng ai khác.

Qua năm sau thì vườn rẫy của tôi đã bắt đầu có thu nhập, năm đó cũng khá được mùa, chúng tôi thu được hai tấn rưỡi cà phê hạt khô, nhưng làm cực lắm, phải mua máy tuốt để tách hạt cà phê rồi phơi khô các thứ, nhờ có Long giúp nên cũng đỡ khổ, nhưng so với số vốn chúng tôi bỏ ra cây giống và công cán thì cũng chưa thấm béo gì, tuy vậy như thế cũng đã tốt lắm rồi. Thường thì cuối năm Long nó về quê thăm gia đình, sau tết mới vô lại nên thời gian ấy có con tôi về nhà nghỉ tết nên ra trông coi và tưới vườn, rảnh ra tôi cũng phải ra tưới phụ với các con. Lúc ấy Toàn đã bước sang năm thứ ba, hai anh em thuê nhà ở gần trường chung với các bạn khác nên cũng yên tâm. Thời gian đó thì truyện tranh chựng lại nên tôi phải mang bản thảo lên Sài Gòn chứ họ không đến nhà tôi lấy như lúc trước nữa, mỗi lần lên là tôi ghé thăm con, có lúc ngủ lại đêm với tụi nó nữa. Bạn bè nó trong phòng mỗi lần thấy tôi lên thì thích lắm, vì tôi kể cho chúng nghe quãng đời sinh viên trước 75 và Đại học tự trị thế nào nên tụi nó được mở rộng tầm nhìn. Có một lần nọ tôi lên thăm thấy Toàn nó thức đêm làm bài cùng các bạn và thấy nó có hút thuốc, tôi buồn lắm và bảo nó Ba hút thuốc là vì ngày xưa đi cạo mủ bắt buộc phải hút để xua muỗi nên bị ghiền, chứ bây giờ con cần gì mà phải hút? Sau này khi nó về nhà, lên phòng tôi làm việc, vô tình nó mở thùng rác ra xem thì thấy nửa thùng đầy ắp toàn là đuôi thuốc lá, nó hết hồn bảo tôi Ba ơi, ba ráng bỏ thuốc lá đi chứ ba hút kiểu này thì chết sớm, tôi nói Con thấy chưa? vì công việc mà ba phải ghiền thuốc như vậy cho nên con coi đó mà làm gương, nhất quyết đừng bắt chước gương xấu của ba làm gì, và kể từ đó nó không hề hút điếu nào nữa cho đến nay. (TOP)

Mua nhà Sài Gòn

Lúc gần ngày Toàn con tôi tốt nghiệp, tôi thuê một căn nhà nhỏ ở Tân Định cho hai đứa ở vì căn phòng trước đây gần trường khu đó người ta giải tỏa xây mới. Lần đó tôi lên thăm hai con và thấy Toàn nó để tóc dài và tuy gần tốt nghiệp mà nó mê nhạc quá luôn, lại quen những người bạn cùng sở thích mê rock như nó, gặp nhau đàn địch hoài. Tôi buồn muốn khóc, muốn nhảy xuống lầu tự tử đi cho rồi, nó thấy vậy thì ngăn tôi lại và hứa sẽ không như vậy nữa. Tôi bảo ba không cấm đoán, nhưng gần đến ngày thi mà con ham chơi như vậy thì làm sao tốt nghiệp được, chẳng lẽ công sức 5 năm bỏ ra đều uổng phí cả sao? Như vậy thì ba má làm sao sống nổi? Nếu con mê rock, hãy để tốt nghiệp xong, khi con có công ăn việc làm tự lực cho mình thì lúc ấy tùy con, con muốn rock riếc gì cũng được. Từ đó nó nghe lời tôi và hàng ngày ra Bưu điện Bình Thạnh ngồi học cho đỡ nóng vì trong Bưu điện có máy lạnh, sau giờ học thì về nhà. Do thấy tội nghiệp hai con tôi quá, ở căn nhà thuê vừa chật vừa nóng nên chúng tôi quyết định cần mua một căn nhà để trước là cho Toàn con tôi làm bài tốt nghiệp, vì cần phải có phòng rộng để bày ra vẽ mới đủ, sau nữa là có ngôi nhà để các con tôi sau này lên đại học nữa. Tôi mua một chiếc điện thoại di động Motorola để liên lạc với Toàn khi nó tìm được nhà. Toàn đi dọ hỏi khắp nơi và tìm thấy có một căn hộ tầng 4 ở chung cư Phan Xích Long với giá cũng vừa phải, có thể mua được. Chúng tôi tiến hành ngay và lên chồng tiền cho họ. Thế là năm 2001 ấy, các con tôi dọn qua nhà mới cho đến khi Toàn bảo vệ xong luận án tốt nghiệp.

Khi nghe tin Toàn bảo vệ xong luận án tốt nghiệp Kiến trúc sư, chúng tôi mừng lắm và tặng cho nó chiếc Honda Dream tôi mua lại của anh Minh trước kia để nó có phương tiện đi làm. Có một ông giám đốc nào đấy thấy nó có khả năng nên muốn nhận nó vào làm, lúc ấy nó thấy bạn bè đứa nào đứa nấy chuẩn bị thi vào Cao học nên nó xin tôi cho nó học thêm 3 năm nữa để lấy bằng Thạc sĩ, giá như người ta thấy con muốn học như thế thì mừng và đồng ý ngay, nhưng hoàn cảnh của tôi lúc ấy con đông, nặng gánh quá, nên tôi nén nước mắt bảo con: Thôi, bây giờ con hãy lo đi làm để phụ ba má đã rồi chuyện học sẽ tính sau, vì gia đình còn một lô em út sửa soạn lên đại học nữa, sợ ba má gánh không nổi. Nó buồn vô cùng, nhưng vì hoàn cảnh mà nó đành chấp nhận đi làm cho ông Giám đốc ấy, lương mới vô thì chẳng được bao nhiêu nhưng cũng đỡ đần phần nào. Năm ấy, nó đoạt giải nhì cuộc thi Thiết kế kiến trúc chung cư và được lên nhận bằng khen cùng tiền thưởng đâu khoảng 10 hay 15 triệu gì đó, đó là thành công đầu đời của con làm chúng tôi vô cùng tự hào và hãnh diện. Nhìn tấm hình nó đứng trên sân khấu nhận giải, chúng tôi muốn trào nước mắt vì sự hy sinh của mình xưa kia nay đã được kết thành hoa trái, hoa trái của niềm tin và yêu thương.

Thời gian trôi nhanh lắm. Lúc đó tuy truyện tranh chựng lại nhưng tôi vẫn kiếm mối này mối khác có đề tài để vẽ, có lúc tôi vì công việc nên phải lên trên Sài Gòn, nhận truyện về thuê họa sĩ vẽ mấy chục tập truyện tranh màu Gương sáng tuổi xanh do Vương đặt tôi làm ngay ở trong căn nhà mới của tôi, sau khi làm xong thì tôi quay trở về Ngãi Giao lại. Rồi một lần nọ, ông Nguyễn Thắng Vu là giám đốc Nhà xuất bản Kim Đồng biết tên tuổi tôi lâu nay rồi mà chưa hề gặp mặt bao giờ, ông muốn gặp tôi một lần để xem mặt mũi tôi ra sao mà ngày xưa lúc tôi vẽ Hesman cạnh tranh với Doraemon của ông được? Vì bên ông chỉ chụp lại rồi nhờ Họa sĩ Đức Lâm thuê người dịch lời và biên tập thôi, còn bên tôi thì vẽ từ A đến Z mà sao vẫn kịp mỗi tuần một tập như Doraemon? Chẳng hiểu ông hỏi ở đâu mà có số điện thoại của tôi nên hẹn gặp tôi ở Sài Gòn để hợp tác. Tôi lên gặp ông để trao đổi và ông nhờ tôi vẽ cho NXB Kim Đồng 3 tập truyện Tứ Quái TKKG của Đức do Bùi Chí Vinh chuyển thể và tôi vẽ lại thành truyện tranh, về sau tôi thấy vẽ cho nhà nước mỗi lần lãnh nhuận bút thủ tục nhiêu khê quá nên tôi không làm cho Kim Đồng nữa.

Sau đó tôi tìm gặp anh Bé Tư, anh tên thật là Trần Trung Thiện, là chủ một hiệu sách ở đường Nguyễn Thị Minh Khai, anh chuyên làm sách giáo dục cho thiếu nhi và số phát hành cũng khả quan lắm, truyện của anh chỉ cần nội dung tốt và vẽ tương đối thôi cũng được. Lúc ấy tôi đã nghỉ làm bên anh Minh vì anh ấy chuyển sang kinh doanh nhà đất chứ không làm truyện tranh nữa nên tìm đến anh, anh cũng biết tôi lâu nay rồi, chỉ là chưa làm với tôi mà thôi, nhưng anh kỹ và thẳng tính lắm nên tuy biết tôi là tác giả bộ Hesman, anh cũng vẫn kêu tôi vẽ thử vài trang Cô Tiên Xanh cho anh xem coi như thế nào, và khi xem qua anh liền chấp nhận ngay, vì phong cách tôi vẽ đẹp và chuẩn hơn Kim Khánh nhiều nên anh liền hợp tác với tôi, giao bộ Cô Tiên Xanh cho tôi vẽ, còn Kim Khánh vẽ Tâm Hồn Cao Thượng thôi, công suất cứ hai tuần một tập, kịch bản có sẵn, lúc đầu thì chỉ in một màu nét đen thôi, nhưng đến tập 5 thì anh kêu tôi làm thế nào để in được thêm một màu nữa cho khác lạ và dễ bán, như vậy bản thảo sẽ tách ra làm 2 tờ, một tờ in màu nét đen, một tờ chuyển các màu thành tram để khi in ra có thể thành màu đậm nhạt theo như mình thiết kế.

Điều đó cũng không khó vì lúc ấy tôi đã biết máy vi tính và photoshop rồi nên thực hiện dễ dàng, và kể từ đó tôi làm với anh liên tục mấy năm liền, mặc dù tiền nhuận bút không cao nhưng cũng sống được. Tính ra thì đã vẽ gần 150 tập truyện Cô Tiên Xanh, trong đó vợ tôi cũng viết được khoảng 40 kịch bản cho bộ truyện ấy, phụ vào với nhuận bút của tôi thì cũng đủ lo cho gia đình được. Ngoài ra vì đã có máy vi tính, tôi cũng còn thực hiện cho anh 30 tập truyện tranh màu cổ tích Việt Nam cùng hàng chục tập truyện khác nữa, kể cả Tâm hồn cao thượng, tất cả đều là những đề tài về giáo dục thiếu nhi, nên tôi cũng vui vì truyện mình làm ra dù sao thì cũng có một chút gì đó đóng góp cho việc giáo dục thiếu nhi, chứ không đơn thuần chỉ là giải trí như trước đây nữa. (TOP)

Thiết kế phông chữ

Lúc này trình độ vi tính tôi so với địa phương thì cũng thuộc loại khá rồi, Ngãi Giao bấy giờ có tôi, Hoàng và thầy Thanh dạy Toán ở trường Nguyễn Trãi là thân nhau nhất, bởi trong vi tính có gì hay thì thường truyền đạt cho nhau. Riêng tôi, tôi cố tình tự học những thứ mà người ta ít để ý tới, tôi thiết kế trang web, mặc dù lúc đó chưa có Internet, nhưng thiết kế để học ngôn ngữ lập trình HTML và cho chạy trên máy thôi để làm quen, nhờ biết HTML nên theo yêu cầu của cha Thịnh lúc cha ghé thăm tôi, thấy tôi làm một phần mềm Hướng dẫn soạn nhạc bằng Encore bằng HTML nên cha thích lắm, cha bảo nếu được thì tôi hãy phát triển chi tiết thêm thành một phần mềm hẳn hoi thì giúp ích được cho nhiều người lắm, nhất là cha đang cần để lấy đó hướng dẫn cho các thầy dòng Phanxico. Tôi bắt tay vào làm và hoàn thiện nó trong vòng một tuần lễ. Cha Thịnh ưng ý lắm copy mang về và phần mềm ấy vẫn hoạt động tốt cho đến ngày nay.

Điều đáng nhớ hơn là nhờ có máy vi tính và phần mềm thiết kế phông chữ Vương tặng tôi, tôi nghĩ đến việc áp dụng nó vào truyện tranh, cần thiết kế một phông chữ riêng y như chữ viết tay trên các truyện tranh mà tôi đã vẽ, vì mình có thể soạn kịch bản ngay trên máy tính mà không cần đến bút kim, trong quá trình soạn kịch bản, mình có thể sửa chữa phần text bất cứ những gì mình muốn chứ không như trước đây viết bằng tay, viết sai thì phải bỏ. Thế là tôi tham khảo và tự học, sau một thời gian ngắn thì tôi thiết kế xong phông chữ đầu tiên, đặt tên là VNI-Comic bằng phần mềm ấy, phông chữ được install vào máy tính chạy trên Windows và hoạt động rất tốt, có thể gõ tiếng Việt bằng bất kỳ kiểu gõ nào, VNI, Telex hoặc VIQR đều được cả. Tôi mừng quá vì từ nay nó có thể giúp ích cho mình được rồi. Lúc ấy tôi đang vẽ bộ Cô Tiên Xanh theo yêu cầu của anh Bé Tư là phải tách màu nên tôi thay cái máy in màu bằng máy in Laser để có thể in bản vẽ trực tiếp lên giấy can phần text, sau đó mình vẽ tranh bằng tay trên bản giấy can đó rất là tiện. Phần tách màu thì sau khi vẽ xong, tôi scan vào rồi tách nét ra bằng Photoshop, tôi hướng dẫn cho vợ tôi phần tô màu và nàng tiếp thu rất nhanh, hai vợ chồng cùng nhau làm rất vui vì nhờ có máy vi tính mà mình thực hiện được công việc tốt như vậy. Và cũng kể từ đó, rảnh ra là tôi làm tiếp những phông chữ mình thích để máy vi tính của mình phong phú hơn.

Bấy giờ trào lưu viết chữ Thư pháp bắt đầu rộ lên, tôi liền nghĩ ngay đến tại sao ta không thử làm phông chữ thư pháp nhỉ? Có nó thì người ta sẽ dùng máy tính gõ ra ngay, đỡ phải thuê người viết tay? Thế là những lúc rảnh ngoài giờ vẽ truyện, tôi bắt tay vào thiết kế phông chữ thư pháp, rất mừng là khi in ra vẫn gần giống như người ta viết tay vậy. Tôi tiếp tục làm phông Thư pháp 1, 2, 3… theo từng style thư pháp khác nhau. Thời gian này thì Internet cũng đã bắt đầu phát triển, đã có dịch vụ Dial up networking để máy tính có thể kết nối với Internet qua modem bằng đường line điện thoại. Tôi rất mừng và mặc dù tiền cước kết nối cao lắm nhưng tôi cũng vẫn thích vào Internet, vì trước nay chỉ nghe tới nó thôi, nay được trực tiếp vào để tìm hiểu và tiếp cận thông tin mới thì ai mà chả ham? Tuy tôi không được ở thành phố, nhưng tôi vẫn luôn nao nức học hỏi những công nghệ mới hầu bổ sung thêm kiến thức cho mình.

Nhờ có Internet mà tôi tìm  được những website miễn phí như Netfirms, họ cho người dùng đăng ký miễn phí tên miền và người dùng có thể tự tạo một website cho riêng mình. Tôi đăng ký ngay và có một trang web riêng của mình trên Internet, thế là tôi viết bài về thiết kế phông chữ và để cho người dùng download miễn phí các phông chữ của tôi về xài, bởi mình được website miễn phí thì mình cũng để cho người ta download miễn phí như là một cách tri ân cộng đồng vậy, vả lại phông chữ là một nhu liệu hơi nhạy cảm, khó mà có bản quyền, vì người khác có thể copy ra hàng loạt và sử dụng ngay chứ nó không có một cơ chế để khóa và đòi hỏi bản quyền người dùng, và nếu mình bán thì chỉ bán được một người, người ấy đem về cho người khác copy thì làm sao mình biết được? Do đó thà mình để free download thì có lợi hơn và cộng đồng người dùng sẽ có cảm tình với mình hơn.

Quả nhiên chỉ sau đó một tháng, tôi tình cờ xem một mẩu quảng cáo của fpt trên báo tuổi trẻ, thấy người ta sử dụng phông chữ thư pháp của tôi, tôi vừa ngạc nhiên vừa mừng vì sản phẩm của mình đã có người sử dụng. mấy ngày sau thì tôi lại nhận được email của anh Lê Hoàn, lúc ấy anh và Phạm Hồng Phước là hai chuyên gia giỏi nhất trong làng máy tính thời bấy giờ, anh Lê Hoàn viết thư bảo rằng cho phép anh đưa các phông chữ của tôi sang giới thiệu bên website của anh và giới thiệu ra cộng đồng, tôi đồng ý ngay vì bấy giờ anh nổi tiếng lắm, các CD phần mềm của anh bán chạy như tôm tươi, mình đã cho miễn phí rồi thì mình cũng không ham thu tiền làm chi nữa, và kể từ ngày ấy, các phông chữ của tôi được nhiều người biết đến và phát hành rộng rãi ngoài thị trường máy tính.

Một ngày nọ có các con tôi về chơi, tôi đem ra khoe một phông chữ thư pháp mới tôi vừa thiết kế xong và đưa lên mạng cho download miễn phí mang tên HLthuphap. Toàn coi qua nó thấy đẹp nên nó nói Sao ba không bán mà để miễn phí uổng vậy? Tôi trình bày cho nó biết về vấn đề bản quyền ở Việt Nam không ai coi ra gì, có bán cũng như không, thà mình để miễn phí mà cộng đồng mang ơn mình thì hay hơn. Nhưng sự thực, miễn phí cũng có cái lợi của nó, nó được lan tỏa mà mình khỏi cần quảng cáo cũng là một thành công rồi, do vậy mà một thời gian sau, tôi nhận được email của anh Trần Phương ở Mỹ, anh là Giám đốc Công ty VNIsoft đã đăng ký toàn cầu về mã tiếng Việt VNI, anh thấy các phông chữ của tôi trên mạng nên hỏi tôi có thể bán những phông chữ ấy cho anh không? Tôi bảo tôi để miễn phí chứ không bán. Anh bảo nhưng anh cần mua để anh bán lại cho người dùng của anh ở nước ngoài, tôi hỏi điều kiện thế nào thì anh bảo rằng cái tên VNI là nhãn hiệu thương mại của anh, vì tôi không biết nên anh bỏ qua cho và từ nay tôi không được dùng tên font là VNI nữa, riêng các font VNI tôi đã làm lâu nay thì anh mua lại, nhưng tôi phải chỉnh sửa phần thông tin bản quyền trong mỗi font là của VNI chứ không phải của tôi, nếu tôi muốn thì tôi có thể làm những font y như vậy nhưng phải ghi thông tin bản quyền bằng tên khác, dùng mã tiếng Việt khác chứ không được dùng mã VNI của anh vì VNI là thương hiệu đã được đăng ký toàn cầu rồi.

Tôi nghe vậy thì chấp nhận ngay, biết rằng có thể anh ấy thử tôi, coi tôi có phải là người thiết kế không, vì chỉ người thiết kế thì mới có thể chỉnh sửa phần thông tin bản quyền trong lõi kernel của font thôi, chứ người dùng có rename cách mấy thì thông tin bản quyền vẫn giữ nguyên trong Properties không thay thế đổi được. Tôi thực hiện thử 1 font rồi gởi cho anh, anh xem qua chính xác như vậy thì biết chính tôi là tác giả nên mua lại tất cả các font của tôi với giá mấy chục triệu tôi quên rồi, nhưng điều đáng mừng là thời gian sau đó, anh tiếp tục nhờ tôi Việt hóa lại các font free của nước ngoài thành font VNI của anh để anh bán cho người Việt ở nước ngoài rất nhiều, do đó mà tôi có thêm khoản thu nhập khá đáng giá này. Vì bản quyền nên tôi không được dùng mã VNI nữa, do vậy nên tôi xin phép Tiến sĩ Nguyễn Văn Hiệp ở Đại học Bách Khoa TPHCM, được phép dùng mã Bách khoa HCM2 của ông để thiết kế font tiếng Việt, nghe vậy, ông đồng ý ngay và kể từ đó, các font chữ của tôi ngoài tiền tố HL lại có thêm chữ BK2 đằng sau tên để dễ phân biệt. Tôi vẫn đưa lên trang web của mình cho người dùng download miễn phí như trước.

Khi Toàn tốt nghiệp thì Khoa đã sang năm thứ 3 đại học, mới năm 3 mà nó đã đi làm thêm ở một Công ty quảng cáo lừng lẫy Leo Burnett của nước ngoài, tội nghiệp, ngoài giờ học ra nó phải chạy chiếc xe đạp đua đến Công ty trên lầu mấy ở đường Lê Duẫn để đi làm, có lần trên đường đi làm nó bị người ta chạy ngang giật mất chiếc đồng hồ đeo tay suýt té nhào trên đường. Thấy vậy nên tôi cho nó đưa chiếc xe máy Angel lên để đi học đi làm cho tiện, còn tôi sắm chiếc xe Future để đi lại. Đến năm 2002 thì Khoa nó được Công ty ấy tin dùng lắm, lương cao và còn được đi Hong kong nữa. Một lần nọ, nhân dịp giải bóng đá Tiger Cup, công ty của nó đứng ra chủ trì là bảo trợ chính và tổ chức một cuộc thi thiết kế poster cho giải bóng đá, cả nước dự thi đông lắm vì giải nhất đến 25 triệu đồng. Nó vẽ một cái poster đẹp lắm nhưng không dám dự thi vì nó là người của công ty, do đó nên nó bảo tôi đăng ký dự thi với bản vẽ của nó, nhưng trên danh nghĩa là của tôi rồi tôi nộp giao cho họ, Ngờ đâu sau hàng trăm bản vẽ, Hội đồng duyệt giải (tất nhiên là không có nó rồi) chọn làm sao mà giải nhất thuộc về bản vẽ đó, Họ đâu biết là do nó vẽ nên viết thư thông báo cho tôi làm tôi mừng khôn tả vì tay nghề con mình đã được khẳng định. Họ hẹn ngày tổ chức buổi lễ nhận giải và mời tôi lên, lúc ấy một số bạn đoạt giải khác cũng biết tôi đã là họa sĩ truyện tranh từ lâu nên không nghi ngờ gì cả, chúc mừng tôi thắng cuộc. Buổi lễ trao giải tại Công viên 23/9 trước mặt chợ Bến Thành. Khi lên nhận giải, nghệ sĩ Thanh Bạch có phỏng vấn tôi và tôi dễ dàng trả lời trôi chảy thôi, vì tôi quen rồi. Cũng ngay trong đêm đó họ trao cho chúng tôi tấm chi phiếu 25 triệu và đó là phần của Khoa chứ không phải của tôi, tôi chỉ được cái danh thôi cũng đã là oách lắm rồi.

Một lần nọ, tôi đi Sài Gòn giao truyện, sẵn tiện ghé Hóc Môn thăm người bà con là anh Bình, con của O Cúc của tôi hồi trước, ngày xưa lúc tôi ở Quy Nhơn thì anh học chung trường La San với tôi, sau này anh cũng học cùng lớp MPC2 với tôi ở Đại học. Thời ấy sau 75 tôi phải nghỉ vì gia đình tôi lúc đó khó khăn quá, không có điều kiện trú lại Sài Gòn để làm ba cái việc linh tinh cách mạng giao sau 75, còn anh thì vẫn trụ lại chờ đợi được và đi lao động như các sinh viên khác một thời gian vì nhà O tôi ở Sài Gòn, sau đó anh đi học tiếp, tốt nghiệp Cử nhân, đi dạy và trở thành Trưởng khoa Hóa ở trường Lê Hồng Phong, sau đó anh đậu Thạc sĩ ngành Hóa hữu cơ. Trước đây tôi có gặp anh nhiều lần nên biết chuyện anh đã có vợ rồi ly hôn, và lấy vợ khác nên tôi không xa lạ gì. Thân phận tôi thì đâu có được học đại học, nên tuy bấy giờ cũng đã có tên tuổi trong làng truyện tranh rồi nhưng tôi vẫn tủi vì mình cũng vẫn chưa có một tấm bằng lận lưng.

Hôm đó tôi ghé thăm anh, đến nhà thấy tấm bảng anh khắc gắn bên cổng nhà với chức danh này nọ là tôi thấy chán rồi, bởi nhà riêng chứ đâu phải card visit đâu mà cần phải làm vậy, người ta dù card visit cũng chẳng thèm ghi nữa là, nhưng lỡ đã đến rồi thì nhấn chuông ghé vào thăm luôn. Chị vợ ra tiếp tôi, nói chuyện mà chẳng thèm mở cửa cổng mời tôi vào, cứ đứng hai người bên trong bên ngoài cửa cổng. Tôi buồn lắm vì tôi với chị ấy đã gặp nhau mấy lần chứ có phải xa lạ gì đâu mà đối với tôi như vậy. Lúc ấy tôi cũng đã thành danh rồi, đi chiếc xe Future mới coóng chứ có phải ăn trộm ăn xin gì đâu? Hóa ra tôi vẫn còn thiếu, thiếu một tấm bằng chăng? Do đó mà tôi buồn lắm, quay xe về và từ đó về sau tôi chẳng lên nữa. Đi ngang qua lô đất mà trước đây O dượng định cho tôi nhưng tôi không nhận, tôi thấy anh Hải đã xây một ngôi nhà bề thế rồi, giá như tôi trước đây đồng ý thì nơi đó đã thuộc về tôi. Nhưng thôi, chuyện đã qua rồi nên tôi chả ham. Trên đường về, lòng cứ ngẫm nghĩ, tuy vết thương lòng vì thân phận mình không được học hành qua bao nhiêu thăng trầm đã được liền da, nhưng lâu lâu động vào vẫn thấy đau nhói ghê luôn. Do vậy mà tôi tự nhủ lòng mình phải quyết tâm cố gắng cho con cái học hành đến nơi đến chốn là vậy.

Cùng năm đó, bé Phúc con tôi cũng thi đậu vào Đại học Kinh tế. Trước đó trong kỳ thi Tú tài, nó làm bài tốt lắm, hầu như nó đứng nhất toàn huyện luôn, bởi chỉ có một đứa đồng điểm với nó mà thôi. Đợt thi đại học nó đăng ký 2 trường, một là Khoa Công nghệ thông tin Đại Học Bách Khoa và một là Khoa Tin học Quản lý Đại học Kinh tế. Bên Bách Khoa lấy điểm chuẩn cao quá nên nó không đạt, đành phải theo ngành Tin học Quản lý bên Kinh tế, nhưng cũng nhờ ngành đó mà thích hợp với nó hơn về sau này, vậy là từ nay gia đình đã chia ra hai nơi, ba đứa con đầu đã lên ở Sài Gòn. Bấy giờ vườn rẫy sau nhà chúng tôi đã thu hoạch khá khả quan, cà phê và tiêu cũng được giá nên chúng tôi không bị lỗ công mà còn dư tiền bù lại. Sầu riêng ba mươi mấy cây đã bắt đầu ra trái nên chúng tôi đóng bao gởi lên Sài Gòn thường xuyên luôn, có lần gần cả tạ, các con tôi tha hồ ăn, nhất là Toàn, nó mê sầu riêng lắm. (TOP)

Lên chức sui gia

Lúc ấy Toàn nó đã đi làm rồi nên tôi khỏi lo, chỉ lo tiền ăn cho Khoa và Phúc thôi, nhà đâu có dư dả gì nên các con tôi sống cũng liệu cơm gắp mắm, đứa nào làm thêm được cái gì thì cũng làm, mấy anh em ở chung với nhau nên tôi cũng đỡ lo, có gì hỗ trợ nhau và bảo vệ cho nhau, tôi ở dưới này chỉ việc lo vẽ Cô Tiên Xanh, mỗi lần lên giao bản thảo đều ghé thăm và thấy con mình ổn định như vậy thì mừng lắm, tạ ơn Chúa không biết sao cho đủ. Lúc ấy thì Toàn đã quen với Hải từ hồi hai đứa còn học Trung học, thấy chúng nó quý mến nhau thì mình cũng mừng, vì Hải nó cũng có tính cẩn thận lo toan chắt góp như vợ tôi vậy, cho nên đến năm 2003, Toàn nó trình bày với tôi về việc nó và Hải quyết định đi đến hôn nhân, lúc đó nó cũng đã 25 tuổi rồi, chúng tôi thấy như vậy cũng được, cả hai đứa đều đã có công ăn việc làm thì tiến tới hôn nhân là đúng thôi. Chúng tôi lên nhà anh sui gia nói chuyện và định ngày đám hỏi và đám cưới cho hai đứa. Giữa năm ấy thì chúng tôi tiến hành đám hỏi và hai bên bàn bạc định 20 tháng 11, sau khi Hải đã học đạo và rửa tội, hai đứa sẽ làm phép cưới tại Nhà thờ Xà Bang và làm tiệc cưới ở hai nhà hai bên.

Tháng 9 năm đó thì Khoa ra trường và định đến tháng 11 thì sẽ đám cưới Toàn. Tuy chộn rộn vì nhiều sự kiện như thế nhưng tôi vẫn phải ngồi vẽ như thường lệ vì đó là cuộc sống của gia đình mà. Khoa tốt nghiệp đồ án của nó đạt hạng nhì thì phải, trên báo Tuổi Trẻ Chủ nhật có đăng bài của nó nên chúng tôi mua về xem và sung sướng vô cùng. Đến ngày cưới Toàn, lần đầu tiên làm sui gia nhưng tôi cũng vững chãi lắm, bởi trước đó tôi cũng đã đi làm chủ hôn giùm cho người ta mấy lần rồi nên tôi không ngại, tự mình làm chủ hôn luôn chứ không phải nhờ ai. Gần đám cưới thì chúng tôi cứ việc ở nhà chuẩn bị mọi thứ, tới ngày thì tụi nó về và tụi nó sẽ lo liệu tất cả nên nó bảo ba má yên tâm, chúng tôi bảo rằng cứ để ba má bỏ tiền ra lo cho, sau đám cưới có tiền quà được bao nhiêu thì gom lại, nếu lỗ thì ba má chịu, nếu dư thì ba má cho tụi con hết.

Đám cưới đứa con đầu lòng nên chúng tôi rất vui và hãnh diện, lúc đó tôi có một căn nhà trên Biên Hòa do cô Ngát của vợ tôi sang lại trước khi cô qua đời, vợ tôi lên xây lại thành một căn nhà hoàn chỉnh nên trong ngày đón dâu về, tôi cho hẳn đứa con đầu căn nhà ấy để hai đứa làm vốn khiến bên nhà gái rất ngạc nhiên, bởi chúng tôi đã tự nhủ lòng rằng, nếu Chúa cho chúng con làm được gì thì chúng con sẽ cho con cái hết chứ khi chúng qua đời nào có đem được gì đâu? Do vậy mà chúng tôi càng mừng vì có của để cho con, sau này nó bán lại căn nhà ấy rồi dùng đó mà bù thêm để mua căn nhà khác ở Sài Gòn.

Lúc này thì mẹ và chị kế tôi đã lên Ngãi Giao ở rồi. Chị cả tôi gởi tiền về nhờ tôi mua đất và xây một ngôi nhà lớn 2 tầng lầu đúc đối diện xéo với nhà tôi, còn ngôi nhà cũ của tôi ở Bình Ba thì chị cả tôi tặng lại cho bên gia đình anh rể tôi lúc trước, cho nên đám cưới có đầy đủ mặt bà nội và các cô chú. Ngày đám cưới, tôi mời bạn bè mình ở Bình Ba lên rất đông, họ chúc mừng tôi vì đã vượt qua biết bao tháng ngày gian khổ dưới đó, nay yên ổn và thành danh trên này như là một phần thưởng của Chúa ban cho mình, con cái thành đạt và trưởng thành như vậy không mừng sao được. Sau đám cưới, số tiền dư lại đâu khoảng hai ba chục triệu chúng tôi đưa cho hai vợ chồng nó, rồi thì hai vợ chồng nó đi trăng mật Nha Trang, và vài ngày sau đó quay về Sài Gòn đi làm luôn, tính ra thật là khỏe và gọn gàng chứ chẳng gian truân và khốn khó như chúng tôi thời xưa, một tấm hình cũng không có mà chụp, nhưng đó là niềm vui, là kết quả của những hy sinh mà.

Đám cưới xong thì vợ chồng Toàn Hải cũng ở trên căn chung cư của tôi luôn, chung với các em, cả nhà nấu cơm chung cùng ăn với nhau. Khoa lúc ấy đã nghỉ bên công ty Leo Burnett vì áp lực nặng nề quá, mặc dù nó đã lên tới chức Art Director nhưng nó vẫn quyết định bỏ, vì tuy lương rất cao nhưng đồng tiền kiếm được cũng không phải dễ do áp lực luôn đè nặng trên đầu, nó chuyển sang làm cho công ty thiết kế của Chi Bảo, tôi mừng nó tốt nghiệp bằng chiếc xe Future mới mua rồi tôi mua chiếc Super Dream cho mình để sử dụng ở dưới nhà.

Về công việc, lúc ấy tôi vẫn vẽ bộ truyện Cô Tiên Xanh cho anh Bé Tư, anh bảo tôi cố gắng sắp xếp để vẽ thêm cho anh bộ Truyện cổ Nước Nam bằng màu toàn bộ song song với Cô Tiên Xanh được không? Tôi bảo rằng được vì lúc ấy tôi cũng rành về Photoshop rồi, chỉ việc tạo kịch bản, vẽ tay rồi scan vô máy, tô màu là xong. Tôi thực hiện cho anh một loạt 32 tập truyện tranh màu in ra rất đẹp. Tôi đem giới thiệu một vài hình trên trang web của tôi, rồi một lần nọ, có cô Michelle Nguyễn nào đó ở Mỹ liên lạc với tôi, xin mua lại bản quyền 2 tập truyện của tôi để in ra cho người Việt ở nước ngoài trên tạp chí nhằm giới thiệu Văn hóa Việt, tôi đồng ý ngay vì trước đây, tôi đã thống nhất với anh Bé Tư là giao bản quyền in sách giấy ở trong nước cho anh, còn nước ngoài hoặc sách điện tử vẫn là bản quyền của tôi. Do đó mà tôi bán file 2 cuốn truyện ấy cho cô cũng được 600 đô, thật đúng là một món quà Chúa ban cho chúng tôi, chứ lúc ấy tôi đang ở miền quê này lấy đâu ra mà biết họ được.

Cũng nhờ Internet mà Công ty VMP gì đó ở Hà Nội họ gởi mail vào nhờ tôi thiết kế 6 trang web cho họ nhân Đại Hội Thể Thao Trong Nhà Châu Á tổ chức tại Việt Nam, chỉ thiết kế mẫu thôi chứ không cần viết code, vì họ đã có sẵn nhân viên lập trình của họ rồi. Họ hỏi giá cả thì tôi bảo là 1 triệu một trang, họ nghe báo giá vậy thì nhận lời ngay vì có lẽ họ thấy rẻ quá. Tôi phác thảo một lần duy nhất gởi cho họ thì họ OK ngay, thế là tôi bắt tay vào làm chỉ 2 đêm là xong, vì quan trọng là cái backdrop chứ các trang sau thì cứ thế mà đổi màu. Họ chuyển tiền thanh toán cho tôi nhanh chóng và tôi gởi file cho họ. Bẵng đi hơn một tháng sau, tôi lên Sài Gòn đón chị tôi từ nước ngoài về cùng các con, trong lúc chờ đợi ở sân bay thì tôi thấy mấy tấm pano quảng cáo là đón vận động viên Châu Á đến Việt Nam dự Đại hội Thể thao Trong nhà, tôi nói với con tôi là Ơ kìa, mấy cái hình mẫu trên pano ấy là do ba vẽ đấy. Các con tôi ngạc nhiên và hỏi họ trả ba bao nhiêu? Tôi tình ngay nên nói là 6 triệu, bởi vì ba chỉ làm có 2 đêm là xong. Mấy đứa con tôi tiếc rẻ lắm, nó nói Ba ơi, mấy cái này họ nhận của nhà nước tiền tỉ mà ba tính vậy rẻ như cho uổng thế? Tôi bảo thôi con ơi, tại ba thấy làm cũng dễ dàng quá nên tính vậy cũng là ngon rồi, thôi thì được vậy cũng là phần phước cho nhà mình rồi mà.

Rồi sau đó, sau khi các phông chữ của tôi thiết kế đã thịnh hành phổ biến trên mọi máy tính, bỗng có một lần một công ty khác cũng ở Hà Nội, thấy tôi làm phông chữ Việt hay quá nên liên hệ với tôi, nhờ tôi Việt hóa giùm họ chỉ một phông chữ nước ngoài thôi tên là Make Felt Thin, tôi còn nhớ kỹ lắm, vì trước đó thỉnh thoảng tôi cũng Việt hóa cho một vài công ty phông chữ nước ngoài thành phông chữ Việt nên tôi quen rồi, nhận lời ngay. Thường thì các người khác hoặc công ty VNI khi nhờ tôi Việt hóa thì họ nhờ tôi đổi tên và bản quyền cũng như các chi tiết khác trong lõi của font để tạo thành phông chữ của họ, cho nên tôi hỏi mấy anh muốn tôi đổi tên là gì và thông tin trong properties là gì để tôi làm, thì họ bảo tôi là chỉ thêm ký tự tiếng Việt và lập trình sao cho nó có thể gõ được tiếng Việt mà thôi, chứ không đụng đến các chi tiết cũng như cấu trúc của font, giữ y nguyên không thay đổi gì cả. Tôi hơi lấy làm lạ nhưng cũng bắt tay vào làm, sau 2 ngày thì xong và gởi ra cho họ, họ thanh toán tiền mau chóng lắm. Bẵng đi một thời gian, năm 2010 lúc tôi làm việc ở Sài Gòn, vô tình tôi xem trên chiếc Iphone 3GS trong phần Note thấy nó dùng đúng phông chữ đó thì hết hồn. Hóa ra ngày xưa trước khi Iphone ra mắt mấy năm, Apple nó đã liên lạc trước với các nước làm font sẵn cho nó để có thể gõ tiếng địa phương mà mình đâu có biết, hèn gì họ bảo tôi giữ nguyên cấu trúc properties để tương thích với Apple. Cái công ty ấy ở Hà Nội nó nẫng tay trên công sức của tôi, đặt tôi làm chỉ trả tôi có 600 nghìn nhưng tôi nghĩ nó sẽ tính với Apple giá cao gấp hơn chục lần là ít. Bởi mình ở một thị trấn xa xôi đâu có biết gì, ai thuê thì làm thôi.

Đến năm 2004 thì bé Hạnh đậu Tú tài, một điều ngạc nhiên là tuy các anh chị học giỏi hơn nó, nhưng điểm thi cả 3 người đều bị khống chế môn này môn nọ nên không được đạt học sinh giỏi, riêng nó thì bình bình không xuất sắc như các anh chị nhưng lại đều các môn nên đạt loại Giỏi, và cũng nhờ loại giỏi đó mà nó được cộng thêm điểm đủ đậu vào Đại học Kinh tế. Chúng tôi và mấy anh chị nó mừng lắm, như vậy là cả 4 đứa con đều đậu Đại học ngay năm đầu tiên. Thầy cô trong trường hầu hết ai cũng khen và nể phục chúng tôi sao có những đứa con học giỏi như thế, một phần là cả 4 đứa đều được học thêm tại nhà thầy Trực cô Thúy nên kết quả mới khả quan như vậy. Chúng tôi không biết tặng gì cho thầy cô, nên đặt làm 4 cái ghế băng đá khắc chữ Toàn Ân Phúc Hạnh Kính tặng mang lên cho cô để cô sắp ngoài hiên nhà.

Thắm thoát rồi thời gian cũng qua mau, sau hai năm đám cưới thì vợ chồng Toàn sắp có con đầu lòng, nó mua một căn nhà chung cư bên quận 4 và dọn qua đó, còn bên nhà tôi ở chung cư Phan Xích Long thì 3 đứa còn lại ở, có bé Khánh con của Hà là cháu tôi lên ở chung nữa. Gần tới ngày sinh, vợ tôi lên Sài Gòn đưa Hải đến bệnh viện, sau đó sinh được một bé gái đặt tên là Hoàng Dung, rồi vợ chồng nó thuê xe đưa về bên nhà mẹ ruột Hải ở Xà Bang. Được ba tuần sau thì chúng tôi lên Xà Bang xin đưa mẹ con Hải về nhà tôi rồi ở đó mấy tháng cho cứng cát, ngày nào làm việc xong cũng vào nhìn cháu, thấy nó lớn lên từng ngày làm lòng mình vui khôn tả. Sau đó Toàn đưa vợ con lên Sài Gòn vì chúng nó đã có nhà riêng rồi.

Có đứa cháu nội đầu tiên, lòng chúng tôi bồi hồi khó tả lắm, mới ngày nào chúng tôi mới gặp nhau, yêu nhau, xây dựng hạnh phúc cho nhau và có đứa con đầu lòng, thế mà nay lại có đứa cháu đầu lòng, là con đẻ của con mình, máu thịt của mình, chúng tôi không vui sao được? Bởi thời gian như sợi chỉ xuyên suốt qua những mảnh vải để dệt nên tấm áo hạnh phúc, được trả giá bằng biết bao gian nan và khổ ải mà chúng tôi đã chèo chống để vượt qua, thực sự không có niềm vui nào có thể so sánh được. (TOP)

Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh

Lúc này Phúc cũng đã ra trường rồi, nó xin vào làm việc ở một công ty nước ngoài chuyên kiểm định phần mềm nên tôi cũng khỏi lo. Như vậy thì cả ba anh em đều đã có công việc ổn định rồi nên chúng tôi nhẹ gánh. Hôm nọ Toàn và Khoa nghe tin tôi đang dành tiền mua cây đàn Organ thay thế cho cây cũ thì tụi nó bảo khoan đã, ba đừng lên mua làm gì, cứ ở dưới đó đợi tụi con. Tôi không hiểu đợi tụi con là thế nào thì một tuần sau, lúc gia đình ăn cơm tối xong thì nghe tiếng xe dừng trước cổng, tôi chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì nghe tiếng Toàn Khoa đang kêu chiếc xe tải lùi vô sân nhà. Chúng tôi chạy ra hỏi thì hai đứa bảo tụi con mua cho ba cây đàn piano chở về đây, phải bốn năm người mới khiêng cây đàn xuống được đem vô nhà.

Tôi mừng như bắt được vàng, vì lâu nay piano chỉ biết mơ thôi chứ chẳng dám bỏ ra số tiền lớn như thế để mua. Tôi hỏi bao nhiêu thì hai đứa chỉ cười mà không nói, chỉ nói là hai anh em con hùn tiền lại mua tặng ba thôi. Từ đó, cây đàn piano như là một động lực cho tôi trên bước đường âm nhạc, khiến tôi đam mê hơn và vì đam mê nên tôi quay qua sáng tác nhạc. Những lúc rảnh rỗi hoặc bất chợt lúc nào tôi có một ý nhạc hay, tôi liền ghi ra và sáng tác rất nhiều bài Thánh ca, hết bài này tới bài khác, có khi chỉ trong một ngày mà tôi viết nguyên một bài hợp xướng bốn bè và luôn cả mấy phiên khúc, vì thế chỉ sau hai ba tháng thôi mà tôi đã viết hơn ba chục bài thánh ca và gần chục bản tình ca, như là có Chúa giúp sức cho tôi vậy.

Lúc này ở Ngãi Giao, qua hơn mười năm gắn bó, ca đoàn Thánh Linh mỗi ngày một tiến bộ hơn. Mặc dù giáo xứ vẫn chưa đủ sức xây nhà thờ, nhưng Ngãi Giao là thị trấn nằm ở Trung tâm Huyện Châu Đức nên hứa hẹn sẽ là bộ mặt mới cho người công giáo trong tương lai, vì các giáo xứ khác như Bình Giã, Xuân Sơn, Cù Bị, Suối Nghệ, Xà Bang... ở cách xa trung tâm huyện quá. Lần đó Giáo phận tổ chức Đại hội các ca trưởng ca đoàn trong toàn Giáo phận với hàng trăm người đến dự tại Long Tân, Bà Rịa. Trong Đại hội ấy, tôi tuy ở giáo xứ nhỏ, chưa có xây nhà thờ, trong lúc các xứ khác như Vinh Hà, Vinh Trung, Xuân Sơn, Suối Nghệ, Hữu Phước đều là những xứ lớn của Giáo hạt Bình Giã, Ngãi Giao chỉ là một xứ nhỏ thôi, vậy mà họ vẫn bầu tôi làm Trưởng Ban Điều hành các Ca đoàn trong Giáo hạt, gồm trên 20 giáo xứ giáo họ, còn anh ca trưởng Giáo xứ Vinh Châu Bình Giã làm phó ban.

Nhân dịp đó, tôi mang các sáng tác Thánh ca của tôi gởi cho Ban Thánh nhạc Giáo phận duyệt và xin Đức Cha chuẩn ấn (imprimatur), khoảng 3 tháng sau thì được duyệt, chỉ để lọt 1 bài không duyệt mà thôi, còn tất cả đều cho imprimatur, có dòng phê duyệt của Đức cha Tôma Nguyễn Văn Trâm, hiện tôi vẫn còn giữ. Mấy chục bài sau này tôi gởi thêm thì Ban Thánh nhạc cũng đều duyệt hoàn toàn mà không phải sửa đổi gì, thật là một điều đáng mừng vì một khi các sáng tác Thánh ca đã được chuẩn ấn rồi thì tất cả các ca đoàn đều được phép hát trong phụng vụ Thánh lễ mà không vi phạm giáo luật. Thời gian sau thì Ban Thánh nhạc Đại chủng viện Xuân Lộc cũng gởi mail xin các sáng tác của tôi để họ in trong Tuyển tập Thánh nhạc của Xuân Lộc. Nhạc sĩ Đinh Công Huỳnh ở nước ngoài cũng liên hệ với tôi và xin tất cả các sáng tác của tôi giới thiệu trên trang web Thư viện Âm nhạc, và cũng nhờ trang web này của anh mà các bài thánh ca của tôi được phổ biến rộng rãi cho các ca đoàn trong nước lẫn ca đoàn nước ngoài, vì hầu như các ca trưởng đều vào trang web Thư viện Âm nhạc này để tìm bài hát cho ca đoàn của mình. Ngày nay có thể vào youtube và gõ tên Nguyễn Hùng Lân là có hàng chục video clip các ca đoàn hát bài của tôi, phần đông là các ca đoàn ở nước ngoài.

Cũng năm đó thì Đức cha bổ nhiệm cha GB Nguyễn Đình Luận về làm cha chánh xứ tiên khởi của Giáo xứ Ngãi Giao. Thánh lễ nhậm chức rất long trọng và lần đầu tiên hát bài hợp xướng Xin tri ân Ngài của tôi sáng tác, ca đoàn rất thích bài hát này và về sau, các quý dòng tu cũng hay dùng bài hát này cho các dịp lễ tuyên khấn của nhà dòng. Có được các sáng tác thánh ca, tôi gởi hai bài lên tạp chí Thánh nhạc ngày nay để cùng đóng góp trong mục sáng tác mới của báo, nhạc sĩ Ngọc Kôn là chủ biên thấy được nên đăng bài hát Bước đi bên Ngài của tôi lên báo để giới thiệu rộng rãi, và cũng kể từ đó, họ gọi tôi là Nhạc sĩ và đưa tôi vào danh sách các nhạc sĩ Thánh ca Việt Nam. Đến tháng 9 thì họ mời tôi lên dự Đại hội các Nhạc sĩ Công giáo Việt Nam, tôi lên tham gia và được biết thêm các nhạc sĩ tài danh khác trong làng thánh nhạc mà lâu nay mình chỉ nghe tên thôi chứ chưa bao giờ được gặp mặt. Sau đó hai nhạc sĩ Đặng Ngọc Ẩn và Nguyễn Quang Huy giới thiệu tôi gia nhập Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh, là cái nôi của Thánh ca Việt Nam từ năm 1945, tôi thấy đây chính là điều kiện để mình trau dồi học hỏi các bậc nhạc sĩ đàn anh nên sốt sắng tham gia ngay, từ đó mỗi năm tôi phải gởi đến nhạc đoàn ít nhất 3 bài thánh ca do mình sáng tác để nhạc đoàn xuất bản hằng năm trong Tuyển tập Cung Thánh. Sau đó thì cha Vương Diệu nhạc đoàn trưởng đích thân lái xe đến thăm tôi ở Ngãi Giao để tìm hiểu sinh hoạt của tôi thế nào và tiện liên lạc về sau.

Cha GB Luận về nhận xứ Ngãi Giao liền tiến hành ngay việc xây nhà thờ, lo thủ tục giấy tờ và kinh phí để xây. Ngài kêu gọi các ân nhân trong và ngoài xứ đóng góp vì giáo xứ lúc ấy nghèo lắm. Vợ chồng tôi tự khấn nguyện với Chúa trong lòng rằng, ngày nay chúng con có được tất cả những gì đây đều là do Chúa ban cả, nên xin cho con có điều kiện để góp phần xây dựng ngôi nhà Chúa. Lúc ấy nhà xứ đang kẹt có một khoảnh đất nhỏ của ông Nha sĩ chiếm dụng ngay trước mặt mà ông chẳng chịu dời đi, muốn ông nhượng lại thì ông đòi giá cao ngất trên trời nên giáo xứ không kham nổi. Chúng tôi liền lên bàn với cha là con có một miếng đất mặt tiền gần nhà bề ngang 5m, nếu ông ấy chịu đổi để dời xuống đó thì chúng con sẵn sàng hiến cho nhà thờ, mặc dù lúc đó miếng đất ấy chúng tôi đã tính cho Khoa là đứa con thứ nhì rồi, nhưng vì giáo xứ cần thì chúng tôi cứ hiến cho việc chung của nhà thờ rồi kiếm tiền cho con mình lại sau cũng được. Ông ấy xuống xem thấy vị trí thì cũng bằng lòng, nhưng ông ấy đòi ngoài miếng đất ra thì phải xây cho ông ấy một ngôi nhà lầu 1 tầng như ông đang ở thì mới chịu. Do đó mà chúng tôi và cha sở bó tay vì làm sao mà đáp ứng yêu cầu quá cao của ông ấy như vậy được, thôi thì ông ấy không chịu di dời thì nhà thờ sẽ làm tường bao che nhà của ông ấy lại cũng được.

Mảnh đất chúng tôi định hiến cho nhà thờ lúc ấy có giá khoảng hơn 200 triệu mà không hiến được nên đến ngày đóng góp, chúng tôi gom tiền nhà lên được 50 triệu đưa cho cha, cha cũng ngạc nhiên vì sao nhiều như vậy, chắc cha tưởng chúng tôi giàu lắm, nhưng cha đâu có biết là hai vợ chồng tôi đã khấn nguyện với Chúa nên cố gắng giữ lời, ăn tiêu dè xẻn từng li từng tí để dành tiền, đến năm sau thì chúng tôi gom góp mùa màng và dành dụm thêm được 100 triệu nữa mang lên cho cha, do vậy cũng chưa đủ như lời khấn nhưng lúc đó chúng tôi hết tiền rồi nên đành thôi, còn miếng đất chúng tôi hứa cho con trai thì vẫn còn đó, sau này nó lập gia đình thì chúng tôi cho nó, muốn bán hay không thì tùy. Kể lại đây để biết rằng chúng tôi đã cố gắng thực hiện lời khấn nguyện của mình ra sao thôi chứ chẳng phải kể công, vì Chúa dạy khi anh em làm việc thiện thì anh em đừng cho tay trái biết việc tay phải làm mà. Bởi khi mình biết cho đi thì mình sẽ nhận được những thứ lớn lao hơn mà mình không tưởng tượng ra được đâu.

Một điều rất đáng mừng và trân trọng thì như tôi đã kể trước đây, lúc Toàn con tôi mới ra trường có xin tôi học thêm Thạc sĩ nhưng hoàn cảnh bấy giờ không đủ sức nên đành gác lại. Sau khi nó lập gia đình, thấy kinh tế đã ổn định, vợ nó khuyên nó nên thi Cao học lại đi vì dù sao có tấm bằng Thạc sĩ cũng vẫn hơn là không có. Nó thi đậu vào Cao học Kiến trúc và vừa đi làm vừa đi học vì ông Giám đốc của nó cũng ưu ái nó lắm, cho nó cứ đi học mà không phải lệ thuộc giờ giấc công ty, miễn sao hoàn thành công việc là được, 3 năm sau, tức là năm 2007, nó hoàn tất chương trình và bảo vệ xong luận án Thạc sĩ. Cả nhà chúng tôi vui mừng sung sướng với thành quả to lớn này. Đến ngày nhận bằng, chúng tôi kéo cả gia đình lên chia vui với nó, có cả gia đình anh Sơn tôi lên chung vui nữa. Thời điểm hiện nay thì kiếm một tấm bằng Thạc sĩ không khó nhưng vào thời ấy của cháu thực sự không dễ dàng gì, như vậy là kể cả bên nội bên ngoại của tôi, chỉ có hai người đậu thạc sĩ, một là anh Bình con O Cúc tôi và hai là Thái Toàn con tôi ở bên nội, còn bên ngoại tôi thì chẳng có ai cả.

Khoa lúc ấy cũng đã lớn mà nó hơi mặc cảm vì mặt mày bị mụn nhiều quá, mặc dù trước đây nó cũng đã có một vài mối tình vắt vai rồi nhưng không thành. Hôm đám cưới Toàn, nó có chở về một cô mặt mày coi cũng được, bảo là bạn gái của nó. Con bé đó khá là dạn dĩ và có vẻ yêu nó, vui vẻ lo việc đám cưới chung với Phúc Hạnh như là chị dâu tương lai vậy, nhưng sau đó thì hai đứa không thành vì nhỏ này lo đảng đoàn nhiều quá, với lại Khoa nghe nói là con nhỏ này có gốc bị bệnh tâm thần gì đó nên chia tay luôn. Mấy đứa em thường chọc vậy là anh Khoa ế rồi, nó vẫn cười vì tính tình nó vui vẻ nghịch ngợm lắm.

Mấy năm trước, lúc vợ tôi lên làm nhà của cô Ngát nhượng lại trên Biên Hòa, vợ tôi có để ý một cô bé gần nhà trên đó tên là Bích, vì thấy cô bé ấy mặt mày sáng sủa xinh xắn, đang là sinh viên năm đầu đại học, lại siêng năng đi lễ hàng ngày nên vợ tôi chấm để làm mai cho Khoa. Ba của cô ấy nhìn thấy vợ tôi cũng siêng năng đạo đức và qua nói chuyện về Khoa thì ông ấy cũng bằng lòng lắm. Nhân một ngày gia đình ông ấy có làm tiệc sinh nhật cho cháu ông, ông mời vợ tôi và Khoa dự tiệc và Khoa chở vợ tôi đi xem mặt coi thử thế nào. Hai đứa gặp nhau cũng nói chuyện vui vẻ rồi thôi. Khi lên Sài Gòn, Khoa nó hẹn gặp Bích để nói chuyện tìm hiểu xem ra sao, lúc ấy Bích nó đang học tại Sài Gòn, đến ngày hẹn thì Khoa nó mắc làm việc nên quên mất tiêu, mà cũng chẳng gọi điện đến xin lỗi nữa, Bích nó quá giận, nó làm cho một trận khiến hai đứa chia tay nhau luôn.

Mãi đến hơn 3 năm sau, vợ tôi nhắc lại là sao con không chịu đến làm hòa với Bích đi, má thấy con nhỏ đó cũng được lắm mà. Khoa nghe lời và lên Biên Hòa tìm Bích, lúc này Bích nó đã ra trường và đi dạy học ở trung tâm vi tính rồi. Hai đứa làm hòa nhau và thấy hợp nhau nên bàn với tôi để xin tiến hành làm lễ đính hôn, vì cả hai gia đình ai cũng muốn vậy mà. Trong thời gian này thì Lâm em ruột tôi qua đời vì bị ung thư, chú nó chỉ dự được lễ hỏi thôi chứ không kịp dự lễ cưới. Vài tháng sau thì hai đứa cưới nhau. Chúng tôi cho hai vợ chồng nó miếng đất mặt tiền ấy nhưng nó không về ở mà nhờ tôi bán lại, chúng tôi bán được hơn 200 triệu đưa cho vợ chồng nó làm vốn. Thế là hai đứa con trai đầu đã xong. Đám cưới tổ chức tại nhà tôi cũng vui lắm, có chị cả tôi từ bên Mỹ về và có cả bác Hiền là em của O Cúc tôi đến dự. Sau đám cưới thì cũng như anh nó, đưa vợ lên chung sống trên chung cư của tôi cùng với các em Phúc Hạnh. Lúc này Khoa nó mở một công ty thiết kế chung với các bạn của nó, còn Bích thì nghỉ dạy ở Đồng Nai, ở nhà phụ với Khoa. Dịp đó Bích nó bảo với Khoa chồng nó là tướng anh đi chiếc môtô không hợp, thôi thì anh đổi cho ba chiếc Super Dream đi, tướng ba đi hợp hơn. Khoa nó thấy cũng phải nên đổi cho tôi, và kể từ đó, chiếc môtô Suzuki nó mới mua mấy tháng đã thuộc về tôi.

Dịp Noel năm 2007 ấy, giáo phận Bà Rịa tổ chức đêm Hợp xướng Thánh ca toàn giáo phận, mỗi giáo hạt bốc thăm một bài của Ban tổ chức, mỗi ca đoàn chọn ra từ 5 đến 10 người tham gia vào ca đoàn chung của giáo hạt. Giáo hạt Bình Giã chúng tôi bốc thăm đúng bài Ra Đời của Nhạc sĩ Hải Linh. Đây là một bài khó nhưng rất hay. Chúng tôi về họp lại các ca trưởng trong toàn giáo hạt và phân công cụ thể ai sẽ là người điều khiển phất nhịp liên ca đoàn gần 200 người tối hôm đó. Hầu như các ca trưởng bạn tôi đều nghĩ rằng tôi có khả năng và lại là Trưởng ban điều hành nữa nên tôi phất nhịp là phải rồi, nhưng tôi lên tiếng ngay và xin giao cho anh ca trưởng Xuân Sơn nhận lãnh trách nhiệm này, cũng nhờ đó mà tránh được lời ra tiếng vào, vì đã là ca trưởng thì ai cũng muốn như vậy cả, nhưng tôi là trưởng ban mà lại nhường như thế thì họ đâu còn gì mà phàn nàn hay tranh đua nữa? Tôi chỉ nhận lãnh tập 1 bè, các anh ca trưởng Vinh Châu, Vinh Hà và Hữu Phước tập 3 bè còn lại, còn ráp thì đã phân công anh ca trưởng Xuân Sơn nhận lãnh trách nhiệm này rồi. Tất cả các ca trưởng các xứ đều vui vẻ.

Bốn buổi tập sau đó quy tụ tất cả các ca viên trong hạt về Ngãi Giao tập chung, và sau đó ráp luôn. Các ca viên ai nấy rất hăng hái nên đi đông đủ gần 200 người, phần lĩnh xướng sẽ do bạn Hồ Nhân trong xứ Ngãi Giao chúng tôi phụ trách vì hầu như trong cả huyện ai cũng biết tiếng hát của anh. Ngày lên đường, cha phụ trách Thánh nhạc trong hạt hợp đồng thuê 5 chiếc xe đò đưa ca viên xuống Bà Rịa. Chương trình bắt đầu bằng việc phát bằng khen cho các ca trưởng có tuổi nghề trên 30 năm, tôi cũng được vinh dự đó vì tôi tính tới thời điểm đó là 33 năm làm ca trưởng rồi. Thay mặt cho toàn giáo hạt, tôi lên nhận bằng khen cho các ca trưởng và các ca viên ôm một xấp đem về. Sau đó Giáo hạt tôi lên trình bày bản hợp xướng rất khí thế và tâm tình, không sai một chút nào so với lúc tập, hát rất vững vàng trong tiếng tán thưởng của mọi người. Anh ca trưởng Xuân Sơn thấy vậy thì quý tôi lắm, vì hầu như tôi đã nhường vinh dự điều khiển ấy cho anh, bởi trong cuộc sống, lắm khi sự khiêm nhường đã khiến ta dễ chiếm được lòng quý mến của mọi người hơn.

Qua năm 2008 thì bé Hạnh con tôi cũng ra trường, chưa nhận bằng nhưng nó đã phỏng vấn và đậu vào Techcombank rồi, nhưng nó đi làm được hơn một tháng thôi thì xin nghỉ và chuyển sang ngân hàng khác vì nó thấy ở Techcombank khó mà tiến thân được. Về sau nó chọn ngân hàng Western bank và làm ở đó, họ gởi đi học thêm khóa quản lý và nó chính thức làm Trưởng chi nhánh ngân hàng đó tại Bình Thạnh.

Bấy giờ Đài truyền hình nghe tên tuổi tôi nên muốn làm một phóng sự về tôi, họ liên lạc và hẹn ngày ghi hình ngay tại Công ty của Khoa. Đó là lần đầu tiên tôi lên truyền hình sau thành công của Bộ truyện Cô Tiên Xanh hướng về mục tiêu giáo dục Thiếu nhi. Ghi hình xong thì tôi về lại Ngãi Giao tiếp tục công việc, họ cho biết ngày chiếu trên tivi nhưng tôi không xem được chương trình ấy vì lúc đó tôi mắc bận tập hát cho ca đoàn ở nhà thờ, uổng thật. Sau đó thì báo chí cũng nói rất nhiều về tôi và về thành công của bộ truyện Hesman trên các phương tiện truyền thông.

Vài tháng sau thì Cục xuất bản có gởi thư mời tôi tham gia cuộc hội thảo tại Hà Nội về truyện tranh Việt Nam, nhưng tôi mắc bận phải vẽ cùng lúc Cô Tiên Xanh và Truyện cổ Nước Nam nên không đi được, tôi chỉ gởi bài tham luận của tôi ra đó và họ nhờ người khác đọc, bài tham luận gây nhiều sự chú ý của ngành xuất bản và sau đó họ có gởi cho tôi nhuận bút là 600 nghìn cho bài tham luận ấy, đồng thời báo Tuổi Trẻ cũng có đưa tin về tôi và các phương hướng phát triển truyện tranh Việt Nam do tôi đề ra. (TOP)

Lên Sài Gòn làm việc

Cuối năm 2009, lúc đó tôi đang vẽ truyện Thằng Bờm giao cho anh Bé Tư, được 6 tập rồi mà anh vẫn chưa chịu in, cứ thúc hối tôi vẽ cho nhanh được 10 hoặc 20 tập để anh in một loạt, tôi nói sức tôi không kịp được, với lại vẽ bộ ấy thì đầu tư nhiều và nhuận bút lại thấp quá nên tôi cũng nản. Các con tôi 4 đứa lên Sài Gòn cả rồi, chỉ còn hai vợ chồng và bé Vân là con út lúc đó đang học lớp 12. Một hôm nọ, Thiên Vương là bạn thân của tôi trước đây trong ngành sách, là người đã đặt tên cho bộ truyện Hesman nổi tiếng, xuống Ngãi Giao gặp tôi. Vương lúc ấy đang kinh doanh sách phát triển lắm, lập Công ty TVC in và phát hành sách các loại. Hồi năm 2002 Vương đã tái bản bộ truyện Dũng sĩ Hesman của tôi và cũng tạo được thành công đáng kể, năm ấy vì Vương cần người biên tập chính tả để sửa bản in nên tôi giới thiệu chị kế của tôi cho Vương, chị kế tôi về hưu nên có thì giờ, ở nhà chỉ việc đọc bản thảo và sửa lỗi chính tả thôi và ăn tiền theo trang, nên thu nhập của chị cũng khá, biên tập đủ mọi thể loại và rất chính xác nên Vương ưng ý lắm, mãi đến năm 2010 thì chị tôi mới nghỉ.

Hôm đó Vương đến thăm và bàn công chuyện với tôi, muốn tôi lên Sài Gòn hợp tác với Vương để tạo ra một đội ngũ họa sĩ, tuyển các họa sĩ trẻ và hợp tác với các họa sĩ đã thành danh rồi để tạo nên một group phát triển truyện tranh. Vương giao cho tôi làm Trưởng phòng Mỹ thuật, chịu trách nhiệm chung để đào tạo họa sĩ truyện tranh, sau này mình khỏi phải vẽ, chỉ ra đề tài, tạo nhân vật còn để các họa sĩ khác vẽ thôi. Tôi thấy kế hoạch như vậy cũng được nên bàn với vợ tôi có nên lên Sài Gòn hay không. Vợ tôi đồng ý ngay vì bé Vân chỉ một năm nữa là cũng vào đại học thì cả gia đình đều lên Sài Gòn ở luôn rồi. Tôi hỏi mức lương bao nhiêu thì Vương bảo tùy anh, lúc ấy thu nhập tôi mỗi tháng cũng chỉ được bốn năm triệu nên tôi nói là 8 triệu để đủ chi dụng tôi trên ấy và gởi về nhà cho vợ tôi nữa. Vương đồng ý ngay và lập quyết định gởi về cho tôi, thống nhất là qua Tết tôi sẽ lên nhận việc tại Sài Gòn. Sau Tết Canh Dần 2010 năm ấy, tôi xin anh Bé Tư nghỉ rồi chuẩn bị dọn đồ lên Sài Gòn, vợ tôi ở nhà chỉ lo ít rẫy bái vì đã có Hóa là em của Long phụ việc ngoài rẫy rồi, mình chỉ lo thu hoạch và bán sản phẩm thôi. Tôi từ giã ca đoàn và bạn bè ở Ngãi Giao, giao lại cho anh Hồ Nhân rồi lên đường. Bạn bè tôi ở Ngãi Giao như anh An, chú Phùng cũng rất mừng cho tôi với công việc mới.

Thế là gia đình tôi lại bắt đầu một chương mới. Lúc này Khoa nó đã mua đất ở Nhà Bè cùng với Toàn và đang xây nhà. Bích vợ nó lúc đó đã xin vào làm ở Công ty Logigear và tụi nó cũng đã ổn định. Khi nó làm xong nhà thì vợ nó bị hư thai nên buồn lắm, ngày nó làm phép nhà, chúng tôi có qua thăm mừng tân gia, vợ tôi hẹn với nó là hai mẹ con sẽ đi hành hương Đức Mẹ La Vang để xin cho Khoa Bích có một đứa con vì lấy nhau đã ba năm, trong khi Toàn năm ngoái thì đã có thêm đứa con gái thứ hai rồi.

Khi tôi vừa lên thì đúng ngay đêm đó là đêm Thứ Bảy, các con tập trung qua Quận 4 ăn mừng, có cả Ẩn là bạn trai của Hạnh nữa, lúc đó Ẩn cũng vừa được lên chức Phó Giám đốc của Công ty Hàn quốc gì đó ở miền Tây nên sẵn tiện rửa lon luôn. Sau khi nghỉ ngơi ngày Chúa nhật thì sáng Thứ Hai tôi bắt đầu nhận việc ngay tại Công ty TVC của Thiên Vương ở đường Đinh Tiên Hoàng, Bình Thạnh, nên cũng không xa nhà tôi là bao. Hằng ngày đi làm, tôi ăn cơm trưa tại tiệm và tối mới về ăn chung với các con ở nhà. Vương gặp tôi thì mừng lắm, vì hai anh em đã biết nhau hơn 20 năm nay rồi nên tuy là Giám đốc, Vương luôn coi tôi như một người anh và tạo điều kiện cho tôi rất nhiều. Chúng tôi đăng tin tuyển người và tôi chịu trách nhiệm phỏng vấn. Tuy vậy, công việc này khá là gian nan vì sinh viên mỹ thuật mới ra trường lúc đó hoặc các họa sĩ trẻ có lối vẽ hầu hết tương tự manga anime của Nhật Bản, nên tìm ra người có lối vẽ phóng khoáng sáng tạo không phải dễ, do vậy mà tôi chỉ tuyển được 3 họa sĩ trẻ để phụ việc và 1 làm biên tập kịch bản mà thôi, còn việc vẽ chính vẫn phải do tôi và các họa sĩ khác thực hiện như Đức Lâm, Ngọc Linh, Huy Tiến, Chinh Phong là những họa sĩ đã quen vẽ truyện tranh lâu nay, sau đó thì bác Chinh Phong đã già và Huy Tiến vẽ không đạt nên rút ra, chỉ còn có 3 chúng tôi mà thôi. Họa sĩ Văn Minh cũng được mời vào nhóm nhưng anh bận nhiều việc quá nên không tham gia được.

Chúng tôi lên kế hoạch xuất bản cùng lúc ba bộ truyện tranh: Tôi phụ trách 2 bộ truyện Tư Ếch phiêu lưu ký do nhà văn Nguyễn Trí Công viết kịch bản và bộ Vó ngựa Sài Gòn do nhà văn Lâm Hà viết kịch bản. Họa sĩ Đức Lâm phụ trách bộ truyện Ngày nảy ngày nay do nhóm Nắng Sài Gòn viết kịch bản, còn họa sĩ Ngọc Linh phụ trách bộ truyện Xác ướp do nhà văn Người Khăn Trắng viết kịch bản. Tôi làm việc ăn lương công ty nên không tính nhuận bút, còn hai họa sĩ kia thì tính nhuận bút theo từng tập. Ngoài ra sau này chúng tôi cũng mời họa sĩ Quang Toàn ở báo Khăn Quàng Đỏ tham gia nữa.

Những buổi gặp gỡ lên kế hoạch làm Vương rất vui, vì mộng của Vương là muốn tập hợp các họa sĩ thành danh lại thành một nhóm để phát triển truyện tranh Việt Nam nay đã thành hiện thực. Báo chí cũng viết nhiều về chúng tôi và các diễn đàn cộng đồng mạng cũng nói nhiều về chúng tôi, họ cũng trông chờ một sức bật mới để truyện tranh Việt Nam thoát khỏi cái bóng của truyện tranh Nhật Bản bao bao trùm khắp thị trường truyện tranh lúc ấy. Báo chỉ thì thỉnh thoảng mới viết, nhưng cộng đồng mạng trên diễn đàn mới thực sự quan tâm, vì họ rất rành về truyện tranh, họ cũng rất rành về tôi và họa sĩ Đức Lâm. Tôi thì họ biết quá rõ sau Dũng sĩ Hesman và hàng loạt bộ truyện khác, Đức Lâm họ cũng rất rành vì anh đã nổi tiếng với bộ Doraemon rồi, chúng tôi chỉ ngại nhất là Ngọc Linh vì tính anh ấy không cẩn thận, hay copy xào nấu những truyện khác. Do trách nhiệm về mỹ thuật là của mình nên tôi luôn nhắc nhở anh hãy làm thật sự bằng chính sức mình để công việc chung được kết quả tốt.

Trong những ngày này, cứ ban ngày tôi đi làm và mỗi chiều về thì tôi hay ghé nhà thờ Phú Hạnh gần chung cư của tôi để xem lễ, tôi tập cho mình thói quen đi lễ hàng ngày để tạ ơn Chúa đã ban nhiều hồng phúc cho gia đình tôi. Dù cho công việc bận rộn cách mấy đi nữa hoặc anh em có níu kéo nhậu nhẹt cách mấy đi nữa thì tôi cũng cáo từ quay về đi lễ cho kịp. Cứ mỗi chiều là thấy bóng chiếc xe môtô của tôi vào sân nhà thờ nên Cha sở và Chị Liên ca trưởng ca đoàn để ý đến tôi lắm. Chị mời tôi tham gia vào ca đoàn của chị nhưng tôi nói để tôi sắp xếp đã rồi mới trả lời chị sau, tôi tặng ca đoàn chị và ca đoàn La Vang trong xứ cuốn tuyển tập Thánh ca của tôi, chị thấy vậy nên mừng và quý tôi lắm, mời tôi làm Ca trưởng thay cho chị luôn, tôi nói chị cứ việc làm đi, tôi chỉ tham gia cùng ca đoàn, có gì cần thì tôi giúp chị thôi.

Và cũng từ đó tôi vào ca đoàn cùng hát chung với mọi người, những bài khó thì tôi tập, nhưng đến khi phất nhịp thì tôi bảo chị ra điều khiển đi để đó tôi hát cùng mọi người cho vững vàng hơn, nhưng mình muốn tránh bao nhiêu thì họ lại càng muốn mình nhận bấy nhiêu, nên sau vài tháng thì tôi nhận lời làm ca trưởng ca đoàn Mân Côi ấy, anh chị em ai nấy cũng vui vì họ biết chị Liên ấy trình độ giới hạn lắm, nay có tôi phát triển thì ca đoàn sẽ vững mạnh hơn. Bấy giờ các em sinh viên thấy vậy tham gia rất hăng hái, ca đoàn có khi hơn bốn chục người, đông hơn cả ca đoàn Thánh Linh của tôi trên Ngãi Giao nữa, chị Liên cũng không ngần ngại, vào hát chung cùng anh chị em ca viên thôi, giao cho tôi tất cả việc tập hát cũng như điều khiển ca đoàn. Ngoài ca đoàn Mân Côi này ra, những chiều thứ bảy tôi đi lễ thấy ca đoàn La Vang hát những bài lạ hơn nên tôi cũng lên hát phụ họ nữa, riết rồi thành quen, anh Việt ca trưởng cũng biết tên tôi ở nhạc đoàn nên thấy tôi qua phụ thì thích lắm, còn những người khác họ thấy tôi là ca trưởng bên Mân Côi mà qua hát phụ bên họ như một ca viên thôi thì họ rất quý tôi, vì tôi không nề hà gì, chẳng ham chức tước, chỉ âm thầm dâng lời ca tiếng hát mình cho Chúa thôi. Đến giữa năm 2011 anh Việt ca trưởng xuất cảnh đi Mỹ nên tôi tạm thời nắm ca đoàn La Vang này, tập hát cho họ luôn, cùng lúc phụ trách cả hai ca đoàn trong xứ.

Cứ mỗi tháng là tôi quay về thăm gia đình một lần, nhớ vợ nhớ con lắm, thương bé Vân là con út chỉ ở nhà một mình, anh chị đi hết cả rồi, năm đó lại là năm tốt nghiệp của cháu nữa. Lúc ấy chúng tôi gởi bé Vân lên học thêm tại nhà em của cô Thúy và ăn ở tại đó luôn, cuối tuần mới về nhà nên vợ tôi ở nhà chỉ một mình, rảnh ra là vợ tôi cùng các chị em bạn làm từ thiện, đi thăm người này người kia và các trẻ mồ côi ở địa phương. Thường thì tôi về vào chiều Thứ Bảy, sáng Chúa nhật đi lễ Nhà thờ Ngãi Giao rồi sáng Thứ Hai đi xe đò lên sớm làm việc. Lúc này Nhà thờ đã xây xong và khánh thành rồi. Cha Luận về hưu và cha Phêrô Nguyễn Thái Phúc là bạn tôi trước đây lên thay, cha Phúc ngày xưa cũng đi tu Dòng Tên như tôi nhưng không đậu nên cha đi tu triều. Có lúc ca đoàn Ngãi Giao cần thì mỗi lần về thăm nhà, tôi tranh thủ tập cho họ một hai đêm gì đó thôi, khi phất nhịp thì đã có anh Vinh bạn tôi ở Bình Ba lên nắm ca đoàn giúp tôi rồi, bởi anh Hồ Nhân chỉ làm được mấy tháng rồi nghỉ.

Đến tháng 7 thì bé Vân con út tôi thi đậu, lên Sài Gòn để chuẩn bị thi vào Đại học. Bé Vân sức học chỉ khá thôi chứ không bằng các anh chị, do đó mà nó chỉ đậu vào Trung cấp Kế toán ở Đại học Tôn Đức Thắng và học ở đó mà thôi. Công việc tôi lúc ấy cũng bình thường và chuẩn bị cuối năm đó sẽ ra mắt hàng loạt, hằng ngày tôi phải dựng kịch bản, vẽ nét rồi giao cho các họa sĩ trẻ trong nhóm là Trinh, Ngọc, và Thanh scan vào máy, làm đồ họa cho ra thành phẩm. Lúc ấy vợ tôi ở nhà một mình nên tôi bảo chuẩn bị sắp xếp lên trên này ở luôn chứ ở dưới đó làm gì? Công việc rẫy thì khoán cho người bà con của chúng tôi là chú Lợi, để chú chủ động làm tất cả rồi khi thu hoạch, trừ vốn đầu tư ra còn bao nhiêu thì chia đôi, do đó mà không ngại chuyện vườn rẫy nữa, thu hoạch từ nó cũng chẳng được bao nhiêu vì giá nông sản lúc đó tụt thê thảm, chỉ phụ thêm được chút nào hay chút đó mà thôi. Thế là vợ tôi thu dọn đồ đạc các thứ cần thiết dọn lên Sài Gòn, còn nhà ấy khóa cửa để không, cũng chừa khá nhiều vật dụng ở lại để hàng năm chúng tôi quay về đó ăn Tết, vì ngôi nhà là kỷ niệm một thời các con tôi bước qua cái ngạch cửa ấy mà vào đời, khó quên lắm.

Gần cuối năm đó thì Công ty của chúng tôi ra mắt cùng lúc 4 bộ truyện tranh như tôi đã kể và cũng được sự đáp ứng nhiệt tình của bạn đọc. Báo Sài Gòn giải phóng có đưa tin về việc này, trong đó chụp hình 4 anh em tôi là Vương, Đức Lâm, Lâm Hà và tôi. Nói chung diễn biến phát hành lúc đầu khá là thuận lợi, chúng tôi chỉ ngại nhất là bộ truyện của Ngọc Linh, vì anh ấy copy cắt cúp nhiều quá, tôi không chấp nhận, nhưng vì Ngọc Linh là bạn thân của Vương nên Vương bảo lỡ rồi, thôi cứ để vậy xem sao. Quả nhiên sau đó, cộng đồng mạng trên các diễn đàn truyện tranh phát hiện ra quá nhiều lỗi sao chép của Ngọc Linh nên họ lên tiếng dữ dội, mặc dù họ biết tôi và vẫn quý mến tôi, nhưng họ trách tôi là Trưởng phòng, chịu trách nhiệm chính về mỹ thuật mà sao lại xảy ra những sự cố đáng trách như vậy? Tôi và Vương gọi Ngọc Linh đến để làm việc thì anh ta cứ cười hề hề làm tôi phát bực, thôi thì Vương chịu trách nhiệm bỏ vốn ra đầu tư mà cứ nể nang Ngọc Linh thì tôi nói tôi không chịu trách nhiệm về Ngọc Linh nữa, tùy anh ấy và Vương định liệu.

Sang năm 2011 thì các con tôi thấy cả gia đình ở trên này hơi chật chội nên Toàn Khoa Phúc Hạnh bốn anh em hùn tiền nhau gom lại hơn trăm triệu để sửa lại nội thất căn chung cư của tôi lại cho gọn gàng và sạch sẽ, trong đó Toàn nó làm ăn được nên nó bỏ ra nhiều nhất. Chúng tôi qua nhà Toàn ở tạm để thợ thi công bên này, khoảng gần hai tháng thì xong và chúng tôi dọn về. Nhà cửa bây giờ khang trang hơn hẳn và sáng sủa lắm, các hộ chung cư ai cũng khen thiết kế đẹp và có người xin vào coi mượn kiểu để họ về sửa lại cho giống chúng tôi. Lúc ấy chúng tôi sẵn dịp bèn làm các thủ tục để hợp thức hóa căn hộ này, lấy sổ hồng luôn cho chắc ăn. Hồi chúng tôi sang lại căn chung cư này chỉ có giấy xác nhận của phường thôi chứ chưa có sổ hồng, nên Toàn liên hệ với chủ nhà lúc trước và làm các thủ tục sang nhượng cần thiết cho đúng quy trình thì mới lấy sổ hồng được. Sau khi làm xong thì chúng tôi cùng bà chủ nhà cũ ra công chứng, hồ sơ hoàn tất đầy đủ, chỉ cần chữ ký cuối cùng của bà chủ nhà thôi là xong, bà ấy đòi 30 triệu, mặc dù bà ấy chỉ ký xác nhận thôi chứ chúng tôi trước đây đã thanh toán tiền nhà cho bà đầy đủ chứ có thiếu đồng nào đâu. Chúng tôi cũng phải chấp nhận thôi vì lúc chúng tôi mua 10 năm trước giá chỉ có 178 triệu, nay giá chung cư lên, lúc đó căn hộ của tôi cũng phải có giá trên 1 tỉ rưỡi là ít, do đó mà chịu tốn thêm 30 triệu cho chữ ký đó thì cũng chấp nhận được, may là bà ấy đòi 30 triệu, chứ nếu đòi 100 triệu thì chúng tôi cũng phải đồng ý, bởi giá cả thị trường sau mười năm biến động lắm. Sau đó bên công chứng thành phố làm giấy chủ quyền đứng tên cho vợ chồng tôi, mặc dù hộ khẩu chúng tôi vẫn còn ở Ngãi Giao, tuy nhiên, luật mới cho phép người ngoài thành phố vẫn được đứng tên sở hữu nhà ở thành phố. Cuối năm đó, sau khi vợ tôi và Bích đi La Vang về thì Khoa có tin mừng vì vợ nó có thai, nó sợ hư thai như lần trước nên nó xin cho vợ nó nghỉ trước luôn cả 6 tháng cho chắc ăn.

Qua năm 2012, chúng tôi tiếp tục ra mắt bộ truyện giáo dục in màu Tôtô và các bạn do tôi chủ biên, có sự hợp lực của Họa sĩ Quang Toàn. Tôi và anh Quang Toàn vẽ nét, còn các họa sĩ trẻ lên màu đồ họa vi tính, bộ truyện này in ấn rất đẹp và rất có giá trị, bởi nó mang ý nghĩa giáo dục trẻ em rất nhiều, do vậy mà Tuổi Trẻ cũng lên bài khen và giới thiệu cho chúng tôi. Thời gian ấy thì chúng tôi nhận được giấy tờ phỏng vấn đi Mỹ, do cậu mợ tôi xuất cảnh qua Mỹ từ năm 1991 nên bảo lãnh cho chúng tôi được rồi. Tôi phân vân lắm, bởi thời ấy tôi theo dõi qua báo chí và mạng xã hội nên cũng biết kinh tế Mỹ và sinh hoạt bên Mỹ như thế nào rồi, kinh tế thì đang suy sụp mà chúng tôi cũng chẳng giỏi giang bằng cấp gì, qua đó chỉ làm cu li mà thôi. Tôi chẳng muốn đi chút nào, chỉ nghĩ rằng may ra bé Vân qua bên ấy có điều kiện học tập hơn và vợ tôi cứ thúc giục mãi, mợ tôi cũng thế, năm ngoái có về thăm chúng tôi thấy chúng tôi ổn định thế mà vẫn cứ muốn chúng tôi qua, ai cũng tưởng qua Mỹ là sung sướng nhưng tôi đã tìm hiểu và đã mường tượng ra xã hội Mỹ như thế nào rồi, tôi cứ chần chừ mà vợ tôi cứ thúc giục, lắm khi hai người cãi nhau dữ lắm, nhưng cuối cùng thì tôi cũng phải thuận theo ý vợ tôi, chuẩn bị phỏng vấn để lên đường.

Lúc này Hạnh và Ẩn đã ổn định công việc và cả hai muốn tiến tới hôn nhân nên chúng tôi mừng lắm, để Ẩn học giáo lý theo đạo xong thì làm phép cưới. Hai bên nhà trai nhà gái chuẩn bị đâu đó xong xuôi thì tiến hành hôn lễ. Chúng tôi biết hai đứa thương nhau từ hồi còn đi học phổ thông nên khi chúng quyết định lấy nhau thì an tâm rồi, vì hai đứa đã tìm hiểu nhau quá lâu, thời gian ràng buộc tụi nó lâu nay rồi nên con đường đi đến hạnh phúc hôn nhân là điều đáng mừng cho cả hai gia đình. Ngày cưới bên nhà trai làm hoành tráng và quy mô lắm, đằng gái chúng tôi thì cũng như các anh nó mọi khi ở Ngài Giao thôi. Cả đoàn xe bên nhà trai nối một hàng dài đến đưa lễ vật khiến chúng tôi cũng nở mày nở mặt với hàng xóm bà con láng giềng. Chúng tôi định cho nó của hồi môn là 250 triệu cho bằng các anh nó, vì tôi không phân biệt gái trai gì cả, nhưng lúc đó chúng tôi hết tiền rồi, gom góp lại chỉ được 150 triệu thôi nên phải mượn Toàn thêm 100 triệu cho đủ. Ngày rước dâu, chúng tôi tặng nó sổ tiết kiệm mang tên nó với số tiền trên, bên nhà trai thấy vậy nên cũng tặng cho nó nhiều lắm, vàng đeo đầy tay, phải lấy một cái rổ nhỏ ra đựng. Thế là trong 5 đứa con chúng tôi đã lo được ba, chỉ còn bé Phúc và bé Vân nữa thôi. Đúng ra là bé Phúc nó đi trước, nhưng tính nó kén cá chọn canh, quen ai thấy không được là chia tay, chứ nó có rất nhiều người theo đuổi mà chọn mãi cũng chưa vừa ý nên để cho Hạnh em nó đi trước, y như chúng tôi ngày xưa, vợ tôi là em nhưng lập gia đình trước chị Huệ của nàng là vậy.

Hạnh Ẩn thành hôn xong thì tụi nó thuê nhà ở riêng trên Sài Gòn, tụi nó có máu kinh doanh nên việc gì cũng xông vào làm mà không ngại gian khổ, thời sinh viên chưa lấy nhau, tụi nó cũng đi bán nón bảo hiểm, rồi mở quán bánh canh lung tung đủ thứ việc, nay đã thành hôn, có công việc vững vàng nên chúng tôi cũng an tâm. Sau đó, chúng tôi đi phỏng vấn và được chấp thuận, chúng tôi làm thủ tục mọi thứ và chuẩn bị lên đường. Vì khi chúng tôi đi thì nhà bây giờ chỉ còn có mỗi bé Phúc nên nó không chịu ở, do vậy mà chúng tôi để cho một ông người Pháp làm ở Công ty bé Phúc thuê, còn Phúc sang nhà Toàn ở cho có anh có em. (TOP)

Xuất cảnh đi Mỹ và quay về

Cuối tháng năm thì chúng tôi chuẩn bị lên đường sang Mỹ, lúc ấy tiền bạc của chúng tôi cũng đã cạn, lại phải đang còn nợ Toàn 100 triệu nên chúng tôi lo lắm. Trước khi đi, chúng tôi ra công chứng làm giấy tờ ủy quyền nhà đất ở Ngãi Giao và Sài Gòn cho Toàn và Khoa, họ hỏi ủy quyền trong bao nhiêu năm, chúng tôi bảo là vĩnh viễn cho khỏe, rồi sau khi sắp xếp các thứ, tôi nói với Vương xin nghỉ việc, chia tay tất cả anh em trong phòng, giao công việc lại cho Vương rồi lên đường, Vương biết chẳng có gì thay đổi quyết định của tôi được nên tuy công việc đang dở dang, Vương cũng phải chấp nhận quản lý thay cho tôi.

Sau buổi tiệc chia tay trong gia đình và thu dọn đồ đạc các thứ cùng cây đàn piano qua bên nhà của Khoa, rồi vợ tôi kêu tôi đi hớt tóc đi kẻo qua bên Mỹ hớt tóc mắc tiền lắm, tôi cũng đi và hớt thành cái đầu đinh gần như trọc, lòng thầm nghĩ rất buồn cười cho sự việc này, chẳng lẽ bây giờ hớt trọc rồi qua bên Mỹ nó không mọc tóc nữa sao? đằng nào qua bên ấy mà chả phải hớt? Đến ngày đi, các con tôi ra sân bay tiễn chúng tôi lên đường, may ra thì có Vân là hồ hởi vì nó còn trẻ có thể chấp nhận hoàn cảnh mới để thử thách, vợ tôi thì mong muốn qua bên ấy để gia đình nàng đoàn tụ, còn tôi lúc ấy đã 56 tuổi rồi, qua Mỹ biết làm gì đây? Nhưng cũng phải đi vì vợ con thôi. Khi làm giấy tờ xuất cảnh, thì bé Ty cháu tôi ở Atlanta đứng ra bảo lãnh về kinh tế cho tôi, còn vợ tôi và bé Vân thì cậu Dũng và dì Hằng bảo lãnh, bởi quy định ở Mỹ lúc ấy quá ngặt nghèo, trong thời gian tôi mới qua mà chưa có công ăn việc làm hoặc đau bệnh thì người bảo lãnh phải đứng ra chịu tất cả phí tổn, do vậy mà tôi cầu xin Chúa cho chúng tôi sang đó luôn mạnh khỏe đừng bệnh hoạn gì mà làm khổ người thân, vì chi phí bệnh viện ở Mỹ rất mắc, tôi nghe nói em của mợ Phi vợ cậu Hùng đau bụng phải đi bệnh viện hai ba ngày thôi mà tốn hết 6000 đô vì không có bảo hiểm nên ngán quá, chỉ biết cầu mong Chúa gìn giữ gia đình khi qua bên ấy bình an và mạnh khỏe thôi.

Máy bay ghé Đài Bắc nghỉ vài tiếng rồi bay thẳng sang Mỹ, đến nơi có cậu Dũng ra đón chúng tôi về nhà, đoạn đường từ phi trường Los Angeles về đến Montclair này chỉ khoảng 35 phút xe chạy. Khi xe về đến nhà thì trời cũng vừa tối, hôm đó có cả vợ chồng dì Hằng đến chơi nữa, ở nhà làm sẵn thịt con gà nấu cháo rồi chúng tôi cùng ăn. Thật sự ở Mỹ không như chúng ta tưởng, vì chính ngôi nhà này cũng không khá hơn nhà chúng tôi ở Ngãi Giao nữa, chứ đừng nói chi là nhà ở Sài Gòn. Tôi thấy vậy nên hơi hụt hẫng nhưng giữ ý không nói gì cả vì lỡ lời nói ra sẽ làm cậu mợ buồn, chỉ có vợ tôi mới bước vào là buột miệng nói: Ồ, Mỹ mà như thế này thì đâu có bằng Việt Nam. Mợ tôi liền bảo: Mợ biết tụi bay ở Việt Nam sướng hơn đây nhiều rồi, nhưng vì công sức bỏ ra 10 năm để bảo lãnh, bây giờ không đi thì uổng, do đó mà thúc giục tụi bay qua đây, thôi thì chấp nhận lên voi xuống chó vậy. Tôi im lặng chẳng nói gì, vì tôi biết cậu mợ tôi cũng khổ, dành dụm bao năm để bảo lãnh chúng tôi, phần vì thông tin về cuộc sống ở Việt Nam không ai rành, cứ tưởng Việt Nam vẫn gian khổ tăm tối như hai mươi năm trước đây, phần thì thương con, muốn cho con cháu đoàn tụ hết bên này, nhưng cậu mợ tôi quên rằng tôi cũng vẫn còn mẹ già ở Việt Nam, đoàn tụ với nhà vợ thì chia cắt với mẹ ruột thôi, nào có sung sướng gì đâu? Với lại có ai bắt chúng tôi phải đi đâu mà chấp nhận lên voi xuống chó? Do vậy mà tôi không dám nhận xét gì, chỉ cười cười cho gia đình vui vẻ. Ở nhà đã dọn sẵn một cái phòng nhỏ cho vợ chồng tôi, còn bé Vân thì sang ngủ với bà ngoại.

Nhìn cậu tôi lúc ấy thấy thương lắm, râu ria mọc tua tủa vì con cái đứa nào cũng bận đi làm, cậu tôi trước đây bị đột quỵ nên chỉ ngồi trên chiếc ghế cả ngày, đến giờ ăn thì ăn thôi. Sáng hôm sau tôi liền hỏi tìm một cái kéo rồi cắt tỉa bộ râu của cậu tôi lại cho dễ coi một chút. Mấy ngày sau cậu Hùng thấy vậy nên đưa cậu tôi đi hớt tóc cho sáng sủa. Khi chúng tôi qua đến đây thì vì ngược vòng quay của trái đất nên cũng chỉ là đêm 31/5, do đó mà qua đêm hôm sau, tất cả đại gia đình đi ra tiệm ăn mừng sinh nhật cậu tôi, và cũng là của tôi. Tiệm ăn của Thái thì cũng giống như mấy tiệm ăn tầm trung ở Sài Gòn thôi chứ không bằng các nhà hàng khác, tuy vậy ở đây người ta dùng khăn giấy rất nhiều, hở ra là lau, lau liên tục nên nhìn đâu trên bàn cũng thấy khăn giấy. Sau này đi các tiệm khác thì tôi thấy đâu cũng vậy, cũng đầy khăn giấy, có lẽ vì nó không làm hại môi trường.

Nhà cậu mợ tôi ngoài sân trước có trồng cỏ ra thì có thêm cái sân sau khá rộng, chứa đủ thứ linh tinh, và vì quen cách sinh hoạt ở Mỹ Tho rồi nên để đủ thứ đồ chứ không ngăn nắp như ta thường thấy trên phim ảnh, thức ăn dư thừa mợ tôi không chịu vứt đi mà đem ra phơi, nên chim và ruồi đầy dẫy khắp nơi, có miếng đất nhỏ thì trồng đủ thứ rau rồi tưới lên đó những miếng nước canh dư làm cho ruồi càng nhiều thêm, mợ tôi bảo tưới như thế cho cây mau tốt. Loại ruồi ở đây to như con nhặng ở Việt Nam vậy, nhà lúc nào cũng phải đóng cửa lưới lại mới chịu nổi. Tôi thấy thế nên bắt đầu qua hôm sau, tôi tiến hành chặt cây làm vệ sinh, nhưng cũng chẳng thấm vào đâu, vì biết bao năm nay không ai rớ tới, ai cũng bận làm việc tối tăm mặt mũi nên đâu có thì giờ, lá rụng trên mái nhà kho dày cả mấy tấc, phải quét dọn cắt tỉa cây cối mất khoảng mấy ngày mới tạm ổn, nhưng cái sân sau thì chịu thua, lúc nào cũng đầy ruồi, ngồi ăn mà phải cầm cái quạt hoặc cái rổ che lại, ăn một miếng là đậy cái rổ che lên tô cơm kẻo ruồi bu vào, nhưng chúng tôi nào có dám than van đâu vì sợ cậu mợ buồn, chỉ biết im lặng vì đã lỡ qua đây rồi. Tôi mới qua không quen ăn uống thịt thà bên này vì toàn thịt đông lạnh, tôi tưởng là đông lạnh khoảng mấy tháng cũng đã ớn rồi, nhưng nghe cậu Dũng bảo có khi đông lạnh từ hai năm trước, do vậy mà sau đó tôi chỉ biết ăn mì gói, may mà nhà cậu mợ có mua sẵn mì gói rất nhiều, có lúc tôi ra siêu thị mua 1 đồng 5 ổ bánh mì nhỏ ăn mì không cho qua bữa. Cũng tội cho mợ tôi, mợ tôi bảo là gia đình đứa nào qua thì mợ tôi lo cho ăn ở sáu tháng, sau đó thì share vào tiền nhà tiền ăn với gia đình, như vậy cũng đã là mang ơn cậu mợ tôi rất nhiều rồi, mình đâu phải thằng bất nghĩa đâu mà dám than van.

Dì Hằng thấy chúng tôi buồn quá bèn mua vé ở Universal Studio Holywood để chúng tôi tham quan cho biết, mỗi vé giá 79 đô lận và được sử dụng trong vòng 1 năm, dượng Phương chồng dì chở ba chúng tôi xuống nhà dì dượng cách đó khoảng 45 phút xe chạy rồi ngủ lại đó mấy hôm. Nhà dì Hằng thì thấy khác, gọn gàng và đẹp vì dì dượng mới mua. Dì dượng đưa chúng tôi đến Holywood chơi để xem cho biết một lần trong đời. Quả thật, đến Holywood thì thấy hoàn toàn khác với những gì ở Montclair nhà cậu mợ tôi, vì nó hiện đại và rất lôi cuốn, thôi thì cũng nén nỗi buồn lại mà đi tham quan một lần cho biết nước Mỹ. Ở chơi vài ngày xong, chúng tôi quay về. 

Khoảng một tuần sau thì gia đình chị Huệ qua, và gần một tháng sau thì vợ chồng dì Ánh qua luôn. Mợ tôi sắp xếp một phòng khác rộng hơn phòng chúng tôi một chút cho gia đình chị Huệ ở, còn vợ chồng dì Ánh thì ở phòng của mợ tôi, mợ tôi và bé Vân qua ngủ ở một phòng nhỏ hơn từ cái nhà kho sửa lại. Thế là đối với mợ tôi, gia đình đoàn tụ như vậy là quá đầy đủ, nhưng mợ tôi đâu biết rằng, tôi còn có mẹ tôi ở Việt Nam, còn hai con rể khác là dượng Nghĩa và dượng Châu thì cha mẹ đã qua đời từ lâu, đâu còn vướng bận gì. Lúc ấy để tranh thủ thời gian, khoảng hai tuần sau thì tôi tự mình đi hỏi nơi học Anh văn của Hội từ thiện miễn phí, tuy trình độ Anh văn của tôi chẳng tới đâu, nhưng tới nơi tôi cũng tự mình hỏi các thủ tục được và làm đơn xin đi học, sau đó có anh Nghĩa chồng chị Huệ cũng đi học chung nữa.

Mấy chục năm gồng gánh gia đình, tự lực đã quen, thế mà bây giờ hoàn cảnh như vậy thì ai mà chẳng hụt hẫng, vì lúc ấy có muốn tự lực cũng không được. Tôi tìm báo để coi các mục quảng cáo thử xem có công việc gì không nhưng hoàn toàn không có, hoàn cảnh kinh tế Mỹ lúc ấy khó khăn lắm, ngoại trừ đi làm nail thì cũng đỡ thôi, vì lúc ấy làm nail ở Cali họ cạnh tranh phá giá quá nên thu nhập cũng chẳng là bao, không như năm ba năm trước đây nghề nail rất thịnh đạt, nhưng chẳng lẽ với độ tuổi tôi mà lại đi làm nail trong lúc việc ở Việt Nam thì không thiếu? Nghĩ mà buồn thúi ruột. Tôi nhờ cậu Dũng hỏi thăm mấy tờ báo địa phương xem họ có cần người thiết kế trang trí gì không thì cậu bảo tụi nó đi làm chỉ giữ cái chân thôi chứ không có lương, thậm chí đi quanh nhà hỏi han thử xem có ai nhờ đi cắt cỏ dọn dẹp gì không thì cũng chẳng có vì dân ở đấy ai cũng nghèo, tự họ làm thôi chứ không ai có tiền mà thuê. Sau đó tôi đi lang thang tìm hiệu sách Việt Nam thì gặp một nơi gần chợ Hòa Bình, tôi vào tham khảo thì thấy các bức tranh sơn mài họ bán để thử coi biết giá trị của nó ra sao, những bức nhỏ 40 x 60 thì họ bán giá 35 đô, bức lớn hơn thì 50 đô. Tôi thất vọng lắm, vì nhu cầu hưởng thụ văn hóa người Việt mình ở đây không có, làm một bức sơn mài rất mệt mà giá bán rẻ bèo như vậy, trong lúc ở Ngãi Giao, chỉ cần thiết kế một poster trang A4 là đã có giá 1 triệu rồi, còn thiết kế poster mừng xuân cho Việt kiều ở Mỹ và Úc hàng năm đặt thì họ đã trả 100 đô, tôi chỉ làm một đêm là xong, ở đây giá bán mà tệ như vậy thì giá mua của họa sĩ càng thấp hơn, làm sao mà sống nổi?

Buồn quá, nên tôi và anh Nghĩa rủ nhau lên Los Angeles chơi cho biết, tự hai anh em mình đi thôi chứ không nhờ ai cả vì các cậu đều bận. Chúng tôi đi bộ ra đón xe bus rồi đổi sang một xe khác lên Los Angeles, chỗ nào không biết thì hỏi, cũng là một dịp để xem vốn tiếng Anh mình thế nào. Hai anh em vào trong khu trung tâm, quả nhiên, ở đây bề thế hơn, sạch sẽ gọn gàng hơn nơi chúng tôi ở rất nhiều. Tham quan nhiều nơi xong, chúng tôi ghé khu China town vì lâu nay chỉ thấy trên phim ảnh, nơi đây chẳng khác gì Chợ Lớn ở Việt Nam, nhiều đoạn cũng khá bầy hầy như Việt Nam vì có nhiều người Việt và người Hoa sinh sống mua bán, có cả nhưng bà mẹ già người Việt ngồi bán rau lang trên vỉa hè, tôi hỏi sao bà không về Việt Nam cho khỏe? bà bảo bây giờ muốn về cũng không biết cách nào mà về, trồng được mấy bó rau lang ra đây bán cho người Việt mình kiếm ít đồng vậy. Chúng tôi vào tiệm kêu một đĩa cánh gà lớn cùng mấy lon bia ăn cho biết, đĩa cánh gà nhiều quá nên ăn không hết phải đem về, đến chiều, chúng tôi tìm đường đi ra bến xe, không biết thì hỏi, và cũng lên đúng xe bus về Montclair nơi chúng tôi ở. Xe bus chạy lối khác nên không đi qua trạm hồi sáng, do đó mà nó tới bến luôn. Từ bến, chúng tôi phải lội bộ về khoảng bốn năm cây số, anh Nghĩa chịu không nổi, lắm lúc phải ngồi bên vệ đường để thở một lúc rồi mới đi tiếp về nhà.

Khi mới qua, Dũng giao cho tôi một sim điện thoại của mợ để tôi dùng vì tôi đi hỏi thăm bên ngoài họ không bán sim điện thoại, tôi lấy làm lạ vì ở Việt Nam, chỉ cần ra đầu ngõ là mua được ngay cái sim để dùng chứ đâu phải khó khăn như bây giờ? Vợ tôi thấy tôi buồn không nói thì cũng buồn theo, nhưng chỉ biết phó dâng cho Chúa thôi vì đã lỡ qua đây rồi, cho nên chỉ hai hôm sau ngày chúng tôi qua là chúng tôi hỏi thăm nhà thờ ở đâu để đi lễ. Sau khi biết được chỗ, sáng nào hai vợ chồng tôi cũng đi bộ khoảng 3 cây số thì tới nhà thờ và cứ đều đặn cả tháng như vậy, về sau thấy trong nhà có hai chiếc xe đạp cũ bị xì lốp để một chỗ nên tôi sửa sang lại, nhờ anh Nghĩa đem qua mấy miếng keo vá nên tôi vá mấy cái ruột xe đâu đó đàng hoàng, nhưng không biết tìm đâu ra được cái ống bơm, sau đó phải nhờ dượng Phương chồng dì Hằng chở về Santana mua một cái ống bơm xe đạp giá gần 15 đô mới có mà bơm xe đạp lên để hai chúng tôi hàng ngày đạp xe đi lễ.

Trong những ngày bế tắc ấy, tôi nhận được email của hãng làm tập học sinh Gia Phát ở Việt Nam, là nơi ngày xưa tôi thường vẽ bìa tập cho họ. Họ nhờ tôi vẽ 11 cái bìa tập với chủ đề Anh hùng Dân tộc. Tôi mừng quá, không nói là mình đang ở Mỹ và cứ thế mà làm cho họ, vẽ xong, tôi cho họ số tài khoản của Khoa con tôi và nói họ chuyển khoản về đó được 11 triệu, tôi nói Khoa cứ giữ đó cho ba. Rồi lại một hôm nọ, nhận email của ông Tiến sĩ xây dựng mà trước đây tôi quen trên mạng, ông nhờ tôi thiết kế giúp cho ông một website khoảng 10 trang, tôi nhận lời với giá 300 đô vì nhập liệu là nhiều chứ thiết kế thì chỉ vài ba trang thôi, nhập liệu theo file pdf của ông ấy có sẵn nên tôi dùng phần mềm chuyển sang text và đưa vào trang web dễ dàng, ông bảo hiện đang ở Cali và vì biết tôi sang Mỹ rồi nên ông tìm đến nhà gởi cho tôi một ngân phiếu thay cho tiền mặt.

Lúc ấy, vì nhớ nhà nên chúng tôi thường gọi về các con thăm hỏi, hôm giỗ cha tôi tại nhà bà nội, các con tôi về dự, thời ấy chưa có Messenger hoặc Zalo nên tôi phải mua một cái thẻ gọi điện thoại 10 đô để gọi qua Internet, nghe tiếng con và gia đình trong ngày giỗ mà tôi chảy nước mắt, bởi từ trước đến nay, chưa bao giờ chúng tôi quên ngày giỗ cha tôi, kể cả lúc tôi còn lưu lạc bán giấy bên nhà vợ ở Mỹ Tho tôi cũng không quên, vợ tôi vẫn làm món mì quảng ở bên nhà vợ để nhớ đến ngày giỗ của cha tôi, thế mà sang bên này, hoàn cảnh như thế thì tôi đâu dám làm gì, chỉ biết gọi điện về thăm các con và khóc thôi. Thỉnh thoảng tôi cũng gọi điện về ca đoàn hỏi thăm tình hình sau khi tôi đi thì ca đoàn thế nào, tôi gọi bằng thẻ nhưng chẳng biết sao lúc được lúc không nên nó tính vào tiền điện thoại của nhà với giá cao lắm, thông thường thì mỗi tháng nhà xài chỉ 100 đô thôi, nhưng kể từ ngày có chúng tôi thì tháng ấy lên đến hơn 300 đô, vợ tôi có tính hay ghen, cứ tưởng tôi có cảm tình với cô nào ấy trong ca đoàn nên gọi điện về, bây giờ tiền điện thoại cao như vậy thì biết tính làm sao bây giờ, tôi nói với vợ tôi là suốt đời anh chưa bao giờ lỗi đức trong sạch với em, chưa bao giờ ăn nằm với ai ngoài vợ mình, nên em đừng nghi ngờ như vậy, mà ngay cả đến tận hôm nay, khi viết những dòng này, tôi cũng vẫn giữ lời hứa chung thủy trọn đời ấy với vợ tôi. Tôi nói điện thoại anh gọi đây là gọi cho bé Sương, cô Thu, chị Hạnh là những người siêng năng để xem tình hình trong ca đoàn tập hát thế nào chứ anh đâu có tình ý gì với riêng ai, anh còn gọi cho con cái rất nhiều lần, cho anh Minh, anh Quân, anh Thi trong ca đoàn nữa, vì cái thẻ lúc ăn lúc không nên mới bị như vậy. Thôi thì em lấy 300 anh vừa làm web trả lại cho cậu Dũng đi chứ đừng để cậu thiệt thòi vì mình. Vợ tôi trả lại Dũng nhưng nó không nhận, và từ đó về sau, tôi không gọi bằng điện thoại nữa, vì rất dễ bị nhầm như lần trước. Hôm Bích vợ của Khoa sinh, các con cũng gọi bằng Yahoo Messenger cho chúng tôi xem clip chứ chúng tôi không dám dùng điện thoại gọi về, chúng tôi mừng và bật khóc khi nghe tin Hải ở lại phụ với Bích, chị em có nhau, trong lúc vợ tôi và tôi lại ở không bên này, chẳng giúp được gì cho con cái.

Sau khi đã tìm việc đủ mọi cách mà chẳng được, tôi bàn với vợ tôi là thôi thì chúng ta quay trở về Việt Nam đi chứ ở đây như vậy thì không xong rồi, về Việt Nam anh còn Công ty của Vương hoặc anh Bé Tư hoặc nhiều mối làm ăn khác, chứ bên này bế tắc quá, vợ tôi cũng đồng ý nghe theo, nhưng còn bé Vân thì sao? chẳng lẽ để nó bên đây chịu khổ một mình? Thôi thì anh cứ về trước đi rồi em tính sau chứ tình hình bên này như vậy thì anh cũng stress mà chết thôi. Tôi bảo anh rất muốn về nhưng em là người quyết định, nếu em không đồng ý để anh về thì anh phải ở lại thôi. Vợ tôi thấy nếu tôi ở lại thì dễ bị stress nên nàng bằng lòng, và thế là sẵn vợ tôi đưa cho tôi 1000 đô để phòng thân lúc mới qua, tôi mua vé hết 700 và còn giữ lại 300 đô. Bên nhà vợ thấy tôi bị sốc nặng như thế nên cậu Dũng cậu Hùng cũng nói là anh nên về, cậu Nam thì không nói gì nhưng dì Ánh thì cứ nói cạnh nói khóe làm tôi bực lắm, nhưng chủ yếu là vợ tôi thôi, vợ tôi đã đồng ý thì ai nói gì cũng mặc.

Sau khi đã quyết định mua vé về xong thì chị cả tôi ở Atlanta book vé cho tôi đi qua thăm anh chị và gia đình. Tôi lên đường qua thăm chị, đến nơi các cháu ra đón và đưa về Atlanta, tới nơi, tôi thấy hoàn cảnh cháu tôi cũng chẳng khác gì các cậu bên Cali, cứ làm việc quần quật cả ngày, tối về nói chuyện một chút rồi ngủ sớm để mai đi làm sớm. Nhân dịp đó, cháu tôi là Steve cũng vừa làm nhà xong, xin cha sở đến làm phép nhà nên gia đình chị tôi cùng qua mừng cháu, tại đây tôi gặp cha Tuấn là dân Gia Kiệm, là bạn của Nhạc sĩ Thế Thông bạn thân của tôi trong Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh nên chúng tôi mừng lắm, nói chuyện tới khuya, mãi đến hơn 2 giờ sáng cha mới quay về. Nhà cháu Steve thì trông bề thế và đẹp lắm, vì hai vợ chồng nó đều làm bàn giấy nên thu nhập cũng khá, tuy nhiên nhà thì đẹp, nhưng cũng phải gánh nợ hơn 300 nghìn đô trả góp dần, cháu Ty của tôi cũng vậy, mà dì Hằng cũng vậy, ai nấy muốn có nhà riêng thì phải gánh một khoản nợ lớn, đến khi trả hết nợ thì ngôi nhà cũng tàn tạ rồi, xã hội Mỹ là thế thôi.

Nghe tin tôi đã quyết định về thì bên gia đình chị tôi và các cháu ai cũng ủng hộ, vì họ biết bên Việt Nam tôi đi làm cũng ổn định rồi, cho dù tôi không khinh dễ việc làm nail vì em mình cháu mình đều làm như vậy, nhưng nếu có được một công việc khác phù hợp hơn thì tại sao phải ráng ở Mỹ để cuối cùng cũng phải đi làm nail? một công việc rất ư là cực nhọc. Tôi đã từng đến thăm mấy tiệm nail của các cậu, thấy khách ngồi trên ghế cao, còn mình thì ngồi dưới thấp làm việc thấy xót xa lắm, kể tới đây tôi lại thấy thương vợ và con tôi vô cùng, vì sau khi tôi về Việt Nam, vợ tôi và con út tôi ở lại bên này cũng phải làm nail để sống, may là con tôi làm móng cũng đỡ cực, còn vợ tôi làm massage chân tay cho khách thấy đau lòng lắm.

Cuối tuần đó thì gia đình chị tôi và các cháu đưa tôi đi picnic bên hồ nước rồi sau đó anh chị tôi đưa tôi về Florida là nơi nhà anh chị tôi ở, chúng tôi đến thăm cháu Anh Thư là con thứ hai của chị tôi, cháu cũng làm nail nhưng là chủ tiệm nên an nhàn hơn một chút, sau đó, nghe tin tôi qua, thầy Thanh là bạn thân của tôi ở Ngãi Giao đưa xe xuống đón tôi lên nhà Thầy ở Orlando chơi hai ngày. Thầy vừa gặp tôi liền bảo cho thầy xin số điện thoại nhà mợ tôi để nói chuyện với vợ tôi, thấy biết rõ tôi nên thầy nói với vợ tôi là chị nên để anh Lân về Việt Nam chứ ảnh không sống ở Mỹ được đâu, vợ tôi bảo thì đã đồng ý để tôi về rồi. Tôi biết thầy Thanh có ý ấy vì lúc đó, tuy thầy đã có ngôi nhà đàng hoàng rồi nhưng nghe đâu trước kia, thầy đã 2 lần tự tử nhưng không thành, thầy đã cố theo học lấy 3 bằng College nhưng rốt cuộc cũng phải bỏ, thầy vay tiền mở tiệm nail và cũng làm nail phụ với vợ, cho nên thầy thấy công việc và khả năng của tôi mà làm cực như vậy chắc tôi không chịu nổi đâu, trong lúc tôi có thể có công việc khác an nhàn ở Việt Nam và hợp với khả năng của tôi hơn. Sau khi ở chơi nhà thầy ngủ lại hai đêm, thầy lái xe đưa tôi về lại Florida và tôi chuẩn bị trở về Cali. Chị tôi gởi cho vợ tôi và bé Vân mỗi người 100 đô, còn tôi thì chị cho tôi cái laptop nhỏ và cái máy tính bảng. Qua hôm sau anh chị đưa tôi ra phi trường để tôi quay về Cali.

Về nhà, qua hôm sau tôi đến DMV tự mình nộp đơn để thi bằng lái xe, thử thi cho biết thôi chứ tôi đã quyết định mua vé về Việt Nam rồi. Cậu Nam chở tôi lên DMV rồi phải quay về đi làm ngay. Tôi ở lại đó xếp hàng cùng mọi người chờ đến lượt mình, họ xếp hàng đông lắm, hơn hai trăm người là ít, rồi cũng đến phiên mình vào thi, may là phần thi trắc nghiệm có bản bằng tiếng Việt nên dễ dàng hơn, mỗi người một ngăn, thời gian muốn làm bao lâu xong cũng được, miễn sao không được mang tài liệu hoặc gọi điện cho ai cả, thi xong có người chấm ngay tại chỗ và sau ít phút thì biết kết quả, tôi cũng đậu nhưng để thử sức mình thôi vì gần ngày về rồi, đâu có chờ thi thực hành để lấy bằng lái làm gì. Tôi gọi điện cho mấy cậu nhờ chở về nhưng chẳng ai bắt máy vì hình như ai cũng quá bận, do vậy nên tôi quyết định đi bộ cho rồi, và thế là cứ theo đường Halt là đường chính xuyên suốt, tôi cứ thế mà đi bộ quãng đường tôi đoán là gần mười cây số, băng qua thành phố Pomona rồi mới đến nhà cậu mợ, lúc gần đến thì nhận được điện của cậu Hùng gọi, đang đi tìm tôi, cậu gặp tôi và chở tôi về nhà. Lâu lắm rồi tôi mới phải đi bộ một quãng đường xa như vậy, buồn vô cùng vì ở Việt Nam mình mấy cái xe máy để không, còn ở đây thì phải cuốc bộ như một kẻ du thủ du thực, nhưng hoàn cảnh mình là vậy thôi, biết làm sao hơn vì các cậu cũng bận rộn đầu tắt mặt tối chứ sung sướng gì.

Một tuần sau thì tôi lên đường, cậu Dũng ghé thăm và cho tôi 100 đô, tôi đưa cho vợ để lo phụ tiền xe chở tôi ra phi trường, nhưng cậu Hùng chẳng lấy. Lòng tôi lúc đó đau như cắt chứ làm sao yên tâm được, chỉ vì chúng tôi đã lỡ qua nên bây giờ chia cách như vậy đau đớn lắm, nhưng tôi nói với vợ là tôi về để chuẩn bị trước rồi sau đó vợ tôi cũng về, vì khi đi chúng tôi có bàn là nếu qua bên ấy phải làm nail cực khổ thì thà về bên này cho rồi, nhưng làm vậy thì để bé Vân một mình bên Mỹ làm sao được, cho nên lúc đó tôi vừa hoang mang bế tắc vừa đau đớn tủi hổ vì không lo được cho vợ con, chỉ vì qua bên này làm chi để tự mình chuốc lấy khó khăn cho mình? Đầu óc tôi rối tung, tinh thần tôi sa sút lắm, nhưng nếu ở lại đây thì tôi biết tôi sẽ bị stress mà chết thôi. Thậm chí có nhiều đêm tôi nằm một mình ngoài cái nhà kho phía sau, đầu óc nghĩ quẫn đến độ giá như mình có một khối thuốc nổ ôm vào rồi nổ tung chết đi cho rồi, nhưng nghĩ vậy thì hèn quá, vừa có tội với Chúa, vừa có lỗi với vợ con, vừa làm cậu mợ bị liên lụy, nên tôi chỉ biết ngồi dậy đọc kinh xin Chúa tha tội. Thôi thì phải nén thương đau mà quay về lo xây dựng lại vậy.

Đến ngày đi thì cậu Hùng chở chúng tôi ra phi trường rồi đưa vợ con tôi quay về, tôi đau đớn lắm, nhưng phải gắng mà chấp nhận số phận. Sau này tôi biết lúc đưa tôi đi, vợ tôi cũng đau đớn và bật khóc nhìn theo tôi, chúng tôi trọn đời có nhau mà bây giờ lại chia lìa đớn đau như vậy, ngồi viết lại những dòng này mà rơi nước mắt. Tôi có bao giờ phải trốn chạy gian khổ vì vợ con đâu, tôi đã từng làm đồ tể mổ heo, xay cá ngoài chợ, bán giấy vụn, việc gì tủi nhục đến đâu tôi cũng chịu được vì tinh thần còn đó, nhưng bây giờ tinh thần sa sút đến cực độ, tôi đành phải chọn lấy cách hy sinh xa vợ xa con để chuẩn bị cho một cuộc sống ổn định hơn nơi quê nhà thôi chứ đâu có mong điều gì lớn lao đâu. Chỉ là vì lỡ ham đến nước Mỹ thôi, nước Mỹ không bao giờ là thiên đường, cũng không phải là địa ngục, nước Mỹ là bãi chiến trường, và tôi là kẻ thua cuộc trên chiến trường ấy, thôi thì cũng ráng mà chấp nhận vì mình đã quyết định rồi, về Việt Nam thì dù sao cũng còn được gần con gần cháu. Như vậy là chuyến tha hương bên Mỹ của tôi chỉ thiếu 3 ngày là đủ 3 tháng, 3 tháng của bế tắc và buồn đau, không những buồn đau cho tôi mà cả buồn đau cho vợ con tôi nữa. (TOP)

Làm thiệp cưới

Về đến phi trường Tân Sơn Nhất thì thấy bé Sương và các bạn trong nhóm Emmanuel ra đón làm tôi cảm động lắm, vì nhóm này trước khi tôi đi tôi đã đào tạo khóa nhạc lý và sáng tác, các cháu rất nhớ tôi và mong tôi về để nhóm có thể sinh hoạt trở lại. Đang nhìn quanh thì thấy Toàn và Khoa tới đón và đưa tôi về nhà, hai con tôi chắc cũng đoán được tình cảnh của tôi nên vui vẻ mà không trách móc gì. Lúc ấy nhà đang cho thuê nên tôi sang ở bên nhà Toàn, còn công việc thì Khoa nó bảo ba đừng làm bên chú Vương nữa mà cứ qua phụ với con vì công việc bên tiệm thiệp cưới của nó cũng đang khấm khá. Tôi bảo để ba làm linh tinh mấy việc phông chữ các thứ của ba đã, nó nói vậy ba cứ đến shop con ngồi đó thôi, còn ba cứ việc làm việc của ba.

Đến nhà gặp bé Hạnh đang chờ, nó nhìn tôi thì rưng rưng nước mắt bảo sao ba ốm và đen quá vậy? Tôi cũng muốn khóc theo con nhưng nhịn được, bảo rằng chắc tại ăn đồ ăn bên ấy không được nên ba sụt ký đó thôi, mà thật, tôi cân thử thì thấy chỉ còn 61 kg rưỡi, sụt mất 3 kg rưỡi. Toàn nói Thôi thì ba cứ ở đây với con, ban ngày đi làm bên Khoa tối về đây cơm nước bên con rồi ngủ lại đây, chừng nào người ta trả lại nhà thì qua bên nhà cũng được. Tối ấy thì Phúc đi làm về và hỏi tôi về sinh hoạt bên ấy, tôi thành thực kể cho các con nghe tất cả nên tụi nó khuyên thôi thì đó là quyết định của ba, miễn sao ba vui sống là được, chứ ở bên đó mà bế tắc quá thì thôi, chỉ tội nghiệp cho má và bé Vân.

Qua hôm sau là đầy tháng bé Ly con của Khoa, tất cả nhà tôi đều qua dự tiệc vui vẻ, lúc này Toàn đã mua xe hơi, còn Khoa thì đã mua từ 2 năm trước rồi. Thấy các con bên này thành đạt mà thương cho bé Vân bên kia. Vợ tôi cũng gọi điện về và cả gia đình tuy chia ra hai nơi, nhưng vẫn vui vẻ như ngày nào đoàn tụ, cho dù là đoàn tụ về tinh thần thôi thì cũng đã là hạnh phúc lắm rồi. Hôm sau nữa thì tôi đi làm ngay vì lúc đó có nhận được mail đặt hàng của công ty Hafele giúp họ làm nguyên bộ phông chữ. Tôi đến shop thiệp cưới của Khoa ở đường Vũ Huy Tấn, nó kê cái bàn chữ L của nó ra ngay phòng đầu để tôi ngồi đó, vừa làm việc của tôi vừa trực cho nó, nếu có khách thì kêu nhân viên nó đang ngồi ở phòng trong ra nhận đặt hàng. Tháng đầu tiên vì tôi không làm việc cho Khoa nên nó đưa tôi 1 triệu rưỡi để ba uống cà phê thôi, nhưng qua tháng sau giúp nó một chút việc như nhận khách giùm thì nó trả lương cho tôi 2 triệu rưỡi rồi lên 4 triệu rồi lên 6 triệu mỗi tháng để tôi có tiền chi dùng, cuối năm thì nó cũng thưởng tiền tết 10 hoặc 20 triệu tùy năm nữa. Như vậy là về cuộc sống tôi không còn phải lo nữa, tôi giúp cho Khoa và có lương để tôi có thể sống được mà không dựa vào ai.

Về Việt Nam chưa đầy một tháng thì tôi đã kiếm đủ tiền bù lại số 1000 đô vợ tôi đưa lúc trước, tôi chat video và đưa cho nàng xem để nàng biết là bên này tôi vẫn làm việc được, tôi thu tiền nhà, tiền vẽ bìa tập của tôi lại để trả lại Hạnh tiền mua vé nó cho mượn trước khi đi. Trong lúc đó thì vợ tôi và bé Vân bên ấy khổ lắm, hai mẹ con phải đi học làm nail, rồi học lái xe để thích ứng với cuộc sống, tôi đau lòng lắm vì mình chưa làm tròn trách nhiệm của một người chồng, một người cha, nhưng biết làm sao bây giờ? chỉ biết làm ăn dành dụm để trả nợ bên này cho hết là mừng. Dần dần thì vợ tôi và bé Vân đi làm nail cũng sống được, Vân cũng đã mua xe hơi, vợ tôi cũng thỉnh thoảng dành dụm được mua quà gởi về. Tôi hàng ngày đi làm, chiều về ghé nhà thờ Phú Hạnh đi lễ bình thường như ngày nào, ca đoàn cũng rất mừng khi tôi về vì 3 tháng tôi đi có nhiều đổi thay ca trưởng, do đó mà đến gần cuối năm, để xây dựng lại cho vững mạnh, Cha sở cho anh ca trưởng kia nghỉ vì anh ấy hơi cao ngạo và kêu tôi nhận phụ trách ca đoàn La Vang trở lại. Cứ mỗi tuần tuy tôi ở quận 4 bên nhà Toàn, nhưng tôi vẫn đi lễ và hát lễ bên nhà thờ Phú Hạnh, chỉ thỉnh thoảng đi lễ bên nhà thờ quận 4 thôi.

Tết năm 2013 ấy chúng tôi quay về Ngãi Giao, vắng mặt vợ tôi và bé Vân nên buồn da diết, các con bày ra ăn uống đủ thứ để mọi người vui. Rồi những ngày tết cũng qua, tôi tiếp tục công việc ở shop thiệp cưới của Khoa. Lúc ấy khi nghe tin tôi về, phóng viên Khương Quỳnh của báo Lao Động đến gặp tôi tại shop của Khoa và viết một bài báo về tôi, cháu còn gởi cho tôi 1 triệu tiền nhuận bút của cuộc phỏng vấn ấy. Nhờ bài báo đó mà một đối tác ở quận 10 liên hệ với tôi để xin tái bản bộ truyện Hesman lần thứ nhì, tôi ký hợp đồng với họ và vẽ lại bìa cho họ, mỗi lần nhận tiền hợp đồng tái bản vài chục triệu tôi liền đem đến gởi cho Toàn, gom góp lại cộng với tiền tôi cho thuê nhà, làm phông chữ để dành và linh tinh các thứ, thì cũng vừa đủ để trả 100 triệu cho Toàn, như thế là an tâm vì nợ nần chuyến đi Mỹ đã được trả xong, không vướng bận gì cả. Thời gian ấy thì bé Chi con của chú Lâm cũng vào đại học, nên cha con tôi hàng tháng gom góp lại mỗi người một chút để nuôi cháu ăn học, sau đó thì Tí Anh vào đại học, cha con tôi vẫn đều đặn giúp cho hai chị em ăn học như vậy.

Bé Hạnh lúc ấy đã sinh đứa con đầu lòng là Quỳnh Anh. Hai vợ chồng nó lúc này đã mua nhà ở bên quận 7. Tôi ở một mình nên thỉnh thoảng hay ghé qua thăm vợ chồng nó rồi ở lại ăn cơm. Nó thương tôi lắm, mua cho tôi áo quần các thứ rồi có lần dẫn tôi vào tiệm Vina Giày bảo rằng ba cứ chọn đôi giày nào ba thích để con trả tiền cho, vốn tính hà tiện nên tôi chọn đôi giày vừa tiền thôi nhưng nó không chịu, một mực bắt tôi mua đôi giày xịn nhất thôi, nay đi gần 10 năm rồi mà vẫn mới nguyên, rồi mỗi ngày đi làm, nó làm ở ngân hàng gần đó cứ hay mua đồ ăn vặt cho tôi và thỉnh thoảng ghé qua thăm tôi, mấy người chung quanh shop của Khoa cứ khen là sao con gái anh thương bố thế?

Bấy giờ bên nhà thờ Phú Hạnh, Cha sở Trương Kim Hương lần nọ mời tôi lên gặp cha, tôi tưởng có chuyện gì ở ca đoàn nhưng không phải, cha bảo cha muốn hỏi ý kiến tôi xem có thể giúp cho Giáo xứ bằng cách làm Chủ tịch Hội đồng Mục vụ Giáo xứ được không? Lúc ấy ông chủ tịch cũ là anh Thịnh và chị phó là chị Liên thì vẫn hoạt động bình thường chứ không có lầm lỗi gì, nhưng ý cha muốn có một gương mặt mới, năng động hơn để giáo xứ phát triển, vì cha biết tôi từ Mỹ về rồi ở lại đây luôn, cho nên cha khuyên tôi nên hy sinh giúp cho giáo xứ, tôi nói là mình còn non trẻ quá nên không dám nhận, nhưng cha bảo tuổi đó là hợp lắm rồi nên tôi cố gắng giúp cha. Vì không tìm cách thoái thác được nên tôi nhận lời, vừa làm chủ tịch HĐMV và vừa phụ trách ca đoàn La Vang, còn ca đoàn Mân Côi thì tôi giao lại cho chị Liên rồi, thỉnh thoảng cần thì tôi mới qua tập giùm thôi.

Đến cuối năm 2013 thì vợ tôi và bé Vân về nghỉ để ăn tết, cả nhà vui như hội vì bây giờ con cháu đông đủ. Bé Phúc nghe vậy liền đăng ký 2 suất du lịch Nha Trang cho vợ chồng tôi. Hai vợ chồng mừng mừng tủi tủi sau bao nhiêu ngày xa cách và hoạn nạn, thôi thì từ nay đành phải chấp nhận chuyện chia xa, mỗi năm vợ tôi về ăn tết một lần cũng được, cứ ở Mỹ 6 tháng và ở Việt Nam 6 tháng. Tôi bên này cứ làm ở shop của Khoa để giúp nó cũng tốt, vì lúc đó Khoa hầu như nó giao hết việc cho tôi, mỗi chiều chỉ chạy xe hơi đến ghé lấy tiền rồi nó thanh toán tiền giấy và vật tư thôi, sau đó chở vợ con nó về bên Nhà Bè, tôi lo tất cả từ thiết kế in ấn cho đến tiếp khách hàng cũng như kế toán sổ sách tiền bạc các thứ, công việc cũng tạm ổn và cuối năm nó vẫn gởi tôi tiền thưởng tết, tôi làm được bao nhiêu thì cứ dành dụm để đó chờ vợ tôi về. Chúng tôi ra Nha Trang và đây là lần đầu biết đến thành phố này, thôi thì quên đi những gian khổ, vui chơi đủ các nơi rồi quay về theo đoàn. 

Bé Phúc lúc này đã chịu dừng chân trước Huy chứ không còn bay nhảy nữa. Cuối năm ấy, lúc vợ tôi về, hai đứa mời chúng tôi đi ăn sushi để cho Huy thưa chuyện trước. Cả hai đứa cùng trình bày mọi việc và muốn tiến tới hôn nhân. Tôi rất xúc động với câu nói của Huy: Con xin thưa với hai bác là nhà con nghèo lắm, nhưng con thương Phúc và muốn cùng Phúc xây dựng hạnh phúc cho hai người. Nghe vậy tôi cảm động quá vì những lời nói rất thật lòng, tôi nói với Huy là nhà bác cũng xuất thân từ nghèo khó chứ đâu giàu sang gì, bây giờ chỉ là hơi ổn định một chút thôi, và vợ chồng tôi bằng lòng để hai đứa lấy nhau.

Tết năm 2014 đó thật vui và ấm áp vì chúng tôi vẫn quay lại Ngãi Giao là nơi thật nhiều kỷ niệm của gia đình. Năm ấy bên shop Khoa làm ăn cũng khá và nó tham gia Hội chợ tiệc cưới tưng bừng, khách đặt hàng cũng đông, nhiều khi làm không kịp cho họ đúng ngày. Lúc này nhà họ đã trả lại nên tôi quay về chung cư sống. Đang có vợ tôi ở đây, nên hai gia đình tôi và gia đình Huy tiến hành mọi thủ tục cho Phúc Huy cưới nhau. Đám cưới diễn ra rất vui vì có bạn bè tôi ở Ngãi Giao lên dự. Sau đám cưới, tôi gom tiền dành dụm lại để cho con nhưng chưa đủ 250 triệu như cho những đứa khác, chỉ được 150 triệu thôi. Bé Phúc bảo chúng con có tiền nên ba má cho như vậy là được rồi. Và sau đó Phúc Huy về ở chung nhà chung cư của tôi, vì mai mốt vợ tôi qua Mỹ thì cũng chỉ một mình tôi ở đó thôi, có tụi nó thì thêm vui. Hàng ngày tôi và vợ chồng nó đều đi làm, tối về mới gặp nhau và tụi nó mới nấu cho tôi ăn bữa tối. Tôi thấy thương Phúc Huy quá nên định sau này, chúng tôi sẽ cho hai vợ chồng miếng đất nhỏ ở Ngãi Giao ngày xưa chúng tôi mua 70 triệu vì chúng tôi muốn cho đứa nào cũng bằng nhau. Về sau, khi bán rẫy, chúng tôi thực hiện lời hứa và sang tên miếng đất ấy cho hai đứa. 

Công việc trôi qua bình lặng từ năm này đến năm khác. Phúc Huy ở chung với tôi chưa được một năm thì tụi nó tìm nhà và mua được một căn bên quận 4 nên chuyển sang đó ở, tôi vẫn sống một mình bên này, hàng ngày đi làm, trưa ăn tiệm, tối về thích thì tự nấu ăn. Vợ tôi vẫn cứ mỗi năm về bên này 6 tháng, ở bên Mỹ 6 tháng, vì nhu cầu không quá áp lực nên vợ tôi chỉ làm vừa sức, rảnh ra là đi lễ và đọc kinh cầu nguyện, đến tháng 10 là về Việt Nam và qua tháng 4 năm sau thì sang Mỹ trở lại, cho nên hầu như tôi quên đi vợ mình đang định cư ở Mỹ, cứ tưởng như vợ tôi ở đây rồi lâu lâu sang Mỹ chơi vậy. Ai ở chung cư có hỏi thì tôi cứ bảo vợ tôi sang ở bên Mỹ để lo cho con út đang ăn học, chứ thường trú là ở bên này.

Năm 2015 thì Phúc sinh đưa con trai đầu lòng đặt tên là Bách, nhà của nó ở quận 4 sang lại cho người khác rồi qua bên tôi ở lại, bởi tôi chỉ có một mình nên con cháu về càng thêm vui, đỡ cô quạnh hơn. Thời gian đó thì shop thiệp cưới làm ăn khấm khá nên Khoa nó dành dụm mua được một căn nhà ở Hàng Xanh, rồi bán đi mua lại một căn nhà ở Phan Tây Hồ gần tôi, rồi lại thấy có lãi nên bán đi và mua một căn nhà mặt tiền đường Bùi Đình Túy, nhà nó ở Nhà Bè thì nó sang lại cho Toàn để Toàn sửa lại cho người ta thuê. Khoa đã có thêm đứa thứ hai là con trai nên vui lắm. Bấy giờ thì các con tôi ai nấy đều ổn định, nhà đứa nào cũng có xe hơi, chỉ có Phúc là chưa vì nó đang chuẩn bị qua Úc do công ty của nó bố trí cho nó và gia đình qua bên ấy làm việc. Trước khi qua Úc, vợ chồng Phúc dẫn tôi ra shop sắm cho tôi một cái laptop HP mới toanh để thay cho cái cũ tôi mua đã gần 10 năm, rồi lại các con tôi sắm cho tôi iphone, ipad các thứ, tôi không thiếu thứ gì, cuộc sống về già như đã sang một trang mới, cứ tháng 4 vợ tôi đi thì ngày tháng qua mau, thắm thoát đến tháng 10 vợ tôi lại về, cuộc sống cứ thế mà trôi đi. (TOP)

Nghỉ hưu

Bấy giờ sau khi chuẩn bị các thứ, Gia đình Phúc Huy và ku Bách lên đường sang Úc theo sự điều động của Công ty. Phúc đã lên đường tiền trạm trước một thời gian rồi nên lần này đưa gia đình qua đã có nơi ăn chốn ở đàng hoàng. Đang là kỹ sư giám định phần mềm máy tính, Phúc được cho theo học và trở thành kỹ sư lập trình, công việc nhìn qua thì thấy nhàn nhã, có thể đến công ty hoặc ở nhà làm việc trực tuyến qua các cuộc hội thảo cũng được, nhưng tôi biết là cũng rất căng thẳng, vì các chi tiết lập trình trước đây tôi đã tự học qua rồi nên phải cẩn thận từng tí một trong bảng code. Tuy vậy, với tư chất thông minh nên dù là con gái, nó vẫn vượt qua và trụ lại được với công ty Atlassian, một công ty cũng rất có tầm cỡ trong làng công nghệ thế giới. Nó có thu nhập cũng khá và hàng tháng vẫn gởi tiền về giúp tôi để trả tiền điện nước điện thoại và sinh hoạt các thứ. Còn Huy thì qua bên ấy trước mắt phải làm lao động phổ thông và học khóa đào tạo công nghệ thông tin theo dạng đào tạo từ xa, do vậy nên hai vợ chồng nó bây giờ tôi thấy cũng đã yên tâm, đã sắm xe hơi, nhà cửa đàng hoàng và lo cho ku Bách đi học trường Công giáo.

Cuối năm 2017 thì tình hình thiệp cưới khựng lại nên Khoa con tôi nó đổi kế hoạch sản xuất, chuyển về nhà nó ở Bùi Đình Túy đặt shop tại đó luôn cho khỏi phải tốn tiền thuê nhà bên Vũ Huy Tấn, không làm thiệp đại trà nữa mà chuyển sang làm thiệp mỹ thuật cho những ai đặt riêng với giá cao. Tôi thấy vậy nên xin nghỉ vì tuổi bây giờ cũng đã hơn 60 rồi, làm với nó thì nó phải trả lương cho tôi thêm gánh nặng cho nó. Lúc ấy anh Duẫn là chủ đất trước kia sang nhượng cho tôi hơn 20 năm về trước, muốn mua lại cái rẫy phía sau của tôi. Trước đây tôi rao giá 1 tỉ rưỡi mà chẳng ai hỏi han gì, sau đó hạ xuống còn 1 tỉ 2 cũng thế, anh Duẫn thấy thích miếng đất của tôi vì trước đây cũng là của anh, hồi đó quá kẹt tiền nên sang lại cho tôi, nay anh muốn mua lại với giá 1 tỉ 2 đó, chỉ xin bớt chút đỉnh lấy hên thôi. Tôi thấy nếu tính theo tiền thì đã lời rồi, nhưng tính theo vàng thì cũng vẫn lời, vì trước kia mua 10 cây rưỡi, nay bán tính theo vàng thì được hơn 30 cây. Tôi bàn với gia đình thì vợ tôi không muốn bán, nhưng tôi bảo mấy năm nay giao cho chú Lợi thì tiền thu được mỗi năm chỉ được bảy tám triệu, có năm nhiều thì được 10 triệu thôi, nay mình bán thì mình chỉ cần gởi ngân hàng tiền ấy cũng được lãi mỗi tháng 7 triệu rồi, bây giờ chúng ta đã già, cần sống an nhàn chứ ham gì cái vườn chờ đất lên giá làm chi nữa? có tiền lãi hàng tháng thì sẽ đảm bảo tuổi già của mình sau này. Vợ tôi vẫn chưa chịu và Toàn cũng vậy, tôi liền nói: Vậy thì trong 5 đứa con, đứa nào muốn mua lại thì ba sẽ cho 200 triệu, ba chỉ tính 1 tỉ thôi. Cũng không có đứa nào muốn mua, Toàn cũng vậy. Tôi bảo thế thì việc gì cứ ôm mãi miếng đất ấy trong lúc mình bán được thì sẽ có tiền lãi cho ba sống mà chẳng phải lo gì về kinh tế?

Cuối cùng thì vợ tôi cũng phải đồng ý vì để miếng rẫy ấy cũng chẳng được lợi gì nhiều, bán đi thì tôi khỏi phải đi làm cũng vẫn có đủ tiền lo sinh hoạt hàng tháng, tôi thích gì thì tôi cứ làm những cái nhỏ lẻ kiếm tiền vặt thôi, chứ già rồi, không chịu áp lực gì nữa. Chúng tôi xuống Ngãi Giao làm giấy tờ sang tên miếng đất ấy, chỉ bớt lại cho anh ấy 20 triệu rồi toàn bộ số tiền ấy Hạnh Ẩn nói cho nó mượn làm ăn, hàng tháng trả lãi cho ba sống, cứ mỗi tháng là nó chuyển khoản tiền lãi cho tôi để trang trải cuộc sống là vui rồi. Hàng tháng Toàn vẫn gởi tiền giúp tôi, nhưng tôi để riêng đó cho vợ tôi chứ tôi không xài đến, vì tôi chi dụng trong khoản tiền lãi và bé Phúc cho là đủ rồi. Sau này Toàn nó thấy tiếc miếng rẫy nhưng vì tôi đã hỏi và bán rẻ mà không chịu mua thì thôi, chuyện đã rồi nên cũng cho qua. Hãy để tiền bạc nó phục vụ mình chứ đừng để mình cả đời chạy theo phục vụ nó, bằng tuổi này có được cuộc sống vui, không phải lo toan là được rồi.

Lúc ấy thì vợ tôi và bé Vân con tôi cũng đã có quốc tịch Mỹ nên muốn đi về Việt Nam lúc nào cũng được. Bé Vân đã tốt nghiệp College nhưng nó không muốn đi làm theo ngành đã học vì lương thấp, nó thích đi làm nail để có thu nhập cao hơn, vì nó chuyên vẽ móng cho khách nên họ thích lắm. Vợ tôi nói với tôi là bây giờ nàng có quốc tịch rồi, muốn bảo lãnh tôi sang Mỹ lại vì cuộc sống của vợ tôi cũng đã qua giai đoạn khó khăn, vợ tôi đã biết lái xe hơi các thứ rồi, nhưng tôi bảo là vì còn mẹ già ở đây, không biết khi nào Chúa cất mẹ đi, nên mình còn phải lo chăm sóc mẹ, nhưng thực lòng thì tôi cũng ớn nước Mỹ lắm rồi, nếu sau này mẹ tôi qua đời thì có thể tôi sẽ qua Mỹ lại cho vợ tôi vui, nhưng sẽ đi đi về về Việt Nam và Úc vì còn các con mình ở đó.

Sau khi sang rẫy, mộng ước của vợ tôi là muốn đi hành hương ở Jerusalem một lần cho biết nên chúng tôi tiến hành ngay, số tiền tôi dành dụm và vợ tôi bù thêm vào cũng đủ 100 triệu cho chuyến đi của hai vợ chồng sang vùng đất Thánh. Chúng tôi đăng ký và đầu năm 2018 lên đường. Đây là chuyến du lịch sung sướng nhất vì lúc đó chúng tôi không còn lo lắng chạy vạy cho cuộc sống nữa. Chúng tôi ra sân bay đi theo đoàn do một cha linh hướng tên là Cường dẫn đầu, trong đoàn còn có một cha khác cũng cùng đi với chúng tôi, tất cả là 16 người.

Đây là chuyến bay đầu tiên ra nước ngoài sau khi tôi đi Mỹ về, nhưng hạnh phúc hơn vì có vợ mình ngồi kế bên mình chứ không phải đơn độc chua xót như lần trước, với lại nơi chúng tôi sắp đến là vùng đất Thánh, là nơi đã từng có bước chân của Chúa Giêsu khi xưa rảo bước giảng dạy, cho nên chúng tôi mừng lắm, mừng vì hơn 40 năm trải qua bao gian truân khổ ải, để ngày nay được cùng nhau thực hiện niềm mong ước của vợ tôi bao lâu nay mà không phải vướng bận lo âu gì về tiền bạc, chỉ muốn thực hiện chuyến hành hương này để cầu nguyện cho con cái luôn hạnh phúc và luôn gia tăng thêm Đức tin, để luôn được là những người thánh thiện và công chính.

Đến Israel, nơi vùng đất vẫn còn tranh chấp, vẫn như trong thời chiến vì khủng bố vẫn còn rình rập đâu đó, cho nên lực lượng an ninh vẫn luôn túc trực, súng lúc nào cũng chỉa thẳng, đạn đã lên nòng, để đối phó với bất kỳ sự cố khủng bố nào. Tuy nhiên người Israel ai lo việc nấy, mặc cho binh lính luôn căng thẳng vì nhiệm vụ, nhưng dân chúng vẫn lạc quan và vui tươi, dân Israel và dân Palestine vẫn vui sống qua lại mua bán bình thường, chỉ có bọn Hamas mới cực đoan làm những chuyện khủng bố tàn ác thôi, cho nên chúng tôi thực hiện chuyến đi rất là vui vẻ và an toàn mà không phải sợ hãi gì. Chúng tôi đến nhiều nơi lắm, mỗi nơi là một sự kiện của Chúa Giêsu ngày xưa, nào là Capharnaum, biển hồ Galilê, Nazareth, Bethlehem, Cana, Bethsaiđa, Jerrico, Jerusalem và nhiều nơi khác nữa. Điều hạnh phúc nhất cho chúng tôi là Cana, nơi Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên hóa nước thành rượu để giúp cho đôi tân hôn khỏi bẽ mặt với khách mời, nơi đây họ dựng lên một giáo đường và hầu như mỗi ngày đều có khách hành hương đến dâng lễ và làm phép hôn phối lại. Chúng tôi và một cặp nữa cũng được diễm phúc này, cũng lên bàn thờ thề hứa như hơn bốn mươi năm trước đây, được Thiên Chúa và mọi người chúc phúc và được chính xứ Cana cấp giấy chứng nhận hôn phối như ngày xưa, quả là một hồng ân cho hai vợ chồng tôi. Và điều quan trọng nhất, cũng là cảm động nhất là chúng tôi thực hiện lại cuộc khổ giá của Chúa Giêsu khi xưa, đi đàng Thánh giá trên con đường theo tương truyền từ dinh Caipha, dinh Philatô rồi ra Núi Sọ chịu đóng đinh. Tuy rằng đã hơn hai nghìn năm, mọi sự đã đổi khác rất nhiều, nhưng họ vẫn giữ và đánh dấu từng nơi truyền lại từ thế hệ này đến thế hệ khác, vẫn còn đâu đó những phiến đá lót đường mòn nhẵn theo thời gian và năm tháng. Rồi thăm Bethlehem nơi Chúa sinh ra, thăm núi Bát phúc, thăm nơi Chúa lên trời cùng nhiều nơi khác nữa. Chuyến đi hơn một tuần trôi qua mau chóng và đó cũng là một kỷ niệm đáng nhớ nhất cho vợ chồng tôi sau khi tôi từ Mỹ trở về.

Cuối năm 2018 thì Bé Hạnh con tôi sinh thêm được một cháu trai nữa là ba, bởi trước đây đã được hai đứa con gái rồi, nên bây giờ vợ chồng nó và chúng tôi mừng vô cùng. Như vậy là tính đến thời điểm ấy, chúng tôi đã có 8 đứa cháu, 4 cháu nội và 4 cháu ngoại, mỗi năm khi xuân về tụ họp nhau chúc tết mẹ tôi rồi chúng tôi đi Đà Lạt chơi hoặc đi biển chơi, nhà đứa nào cũng có xe hơi nên khỏi phải lo lắng gì. Sau bao nhiêu khó khăn vất vả vì chia xa, nay gia đình tôi được sum họp đông đủ được như vậy rõ ràng là phần thưởng Chúa ban cho.

Cũng thời gian này, các bạn trẻ trên facebook hình thành một nhóm gọi là fan của Hesman xưa kia với gần năm nghìn thành viên. Ngày xưa lúc họ đọc truyện Hesman thì họ còn nhỏ, ngày nay họ đã trưởng thành và tìm hiểu ra tác giả bộ truyện tranh này là một người Việt Nam chứ không phải của Nhật Bản, họ tìm đến tôi và xin được tái bản bộ truyện này lần nữa. Sau những bài viết trên group Hesman The Legend Reborn thì báo chí vào cuộc, họ viết rất nhiều bài viết về tôi và khen ngợi bộ truyện mà họ cho rằng đó là một huyền thoại, vì ngày xưa chỉ với sức người nơi một vùng đất xa xôi chưa có điện mà tôi lại thực hiện được mỗi tuần một tập, ngày nay dù có nhiều phương tiện hỗ trợ vẫn chưa có ai thực hiện được với thời gian như vậy cả, bộ truyện trở thành một tâm điểm và là một kỷ lục của truyện tranh Việt Nam, thôi thì báo chí đủ loại, từ báo giấy đến báo điện tử đều nhắc đến. Đài truyền hình HTV, VTV, VTC cũng làm phóng sự về tôi năm sáu lần. Hà Nội mời tôi ra nói chuyện về Hesman với khá nhiều nhà báo tham dự. Trong buổi tọa đàm này, tôi có hứa là vẽ tiếp thêm 1 tập nữa để làm cái kết cho bộ truyện 159 tập này, và tôi sẽ thực hiện tập 160 này hoàn toàn là truyện màu để đáp ứng lòng mong mỏi của độc giả bấy lâu nay.

Và thế là tôi bắt tay vào việc thực hiện tập 160, trong thời gian này thì tôi có viết giấy chấp thuận cho group Hesman tái bản lại 159 tập trước với số lượng hạn chế cho những ai đăng ký, các bạn trẻ ấy sau 2 tháng đã in xong và dù tôi không đòi bản quyền, các bạn ấy cũng trích ra trả cho tôi mấy chục triệu nhuận bút, rồi Comicola xin phép dựng mô hình Hesman và cũng trả cho tôi bản quyền 10 triệu, tôi cứ gom góp dần cho gia đình, nên tuy đã nghỉ hưu, tôi vẫn có thu nhập đều đều chứ chẳng phải ở không. Các khoản tiền thu được và tiền Toàn con tôi cho hàng tháng, tôi chuyển vào cho vợ tôi, và vợ tôi dùng số tiền ấy mà làm từ thiện hoặc sắm sửa cho các cháu mà không phải đụng tới tiền của nàng ở Mỹ, vì tôi biết ở Mỹ kiếm ra được đồng tiền rất khó khăn, thậm chí có khi phải trả bằng máu và nước mắt.

Sau ba tháng thì tôi đã hoàn thành tập truyện tranh màu đặc biệt 160 này, như là một cái kết có hậu cho bộ truyện tranh Dũng sĩ Hesman và Siêu nhân Việt Nam. Tôi cho phép group Hesman in trước mấy trăm bản và tôi vẫn giữ bản quyền, nhóm vẫn trích nhuận bút 15 triệu gởi cho tôi. Ngay sau đó, mặc dù group Hesman đã tái bản rồi, nhưng Công ty Hanoibooks lập tức liên hệ với tôi và mua bản quyền lại trọn bộ Hesman để tái bản lần thứ ba bằng giấy phép chính thức của nhà xuất bản chứ không phải tự phát như trong group Hesman. Chúng tôi đồng ý thương thảo về nhuận bút và bản quyền, không chỉ đối với tôi mà còn đối với Công ty World Event Productions là chủ sở hữu nhân vật Voltron mấy chục năm trước nữa, do đó mà nhuận bút của tôi phải chia 50% cho WEP. Hợp đồng ký xong thì trong lúc họ chuẩn bị bản thảo và in ấn, Phúc làm giấy tờ cho tôi và vợ tôi sang Úc chơi, thăm nước Úc một lần cho biết.

Chúng tôi lên đường sang Úc chơi 10 ngày, vừa đến nơi đã thấy Phúc Huy ra đón và đưa về nhà, cũng là một căn hộ chung cư nhưng tân tiến và rộng rãi lắm. Thấy con cái mình ở xứ người mà ổn định như vậy nên chúng tôi rất mừng, ngày nào hai vợ chồng cũng đi đến nhà thờ gần đấy dâng lễ, tạ ơn Chúa đã ban cho chúng tôi hồng phúc như vậy. Vợ chồng Phúc ở ngay Sydney nên rất tiện, nó đưa cho vợ chồng tôi mỗi người một cái thẻ, đi đâu cũng bằng metro rất thích, lại đưa cho tôi một cái thẻ muốn mua gì cứ quẹt thẻ là xong. Quả thật, nếu so sánh cuộc sống ở đây và cuộc sống ở Mỹ nơi vợ tôi đang sống, thì ở đây sung sướng hơn rất nhiều, cư dân rất có văn hóa, đi đâu cũng được nhường đường, phố xá sạch sẽ và hiện đại, nếu cho tôi chọn giữa Mỹ và Úc thì tôi sẽ chọn Úc ngay.

Vợ chồng nó đưa chúng tôi đi khắp nơi, nào là cầu cảng Sydney, nhà hát Opera Úc, rồi đi hằng trăm cây số đến cắm trại ở vùng rừng núi, vùng biển rất tuyệt, lại đưa chúng tôi lên thăm công ty nó làm việc rất chi là hiện đại và sung sướng, có câu lạc bộ muốn đến nghỉ hoặc làm việc tùy thích, muốn ăn uống gì thì cứ việc, tất cả đều ngon và miễn phí. Tôi thấy vậy quá mừng cho con gái mình đã tìm được một nơi làm việc thoải mái ở xứ người, chứ đâu phải như ở Mỹ, dân Việt Nam mình qua đó hầu như 95% phải đi làm nail, nghĩ mà buồn và thương vợ con mình quá. Sau 10 ngày thì chúng tôi lại quay về Việt Nam vì đã đến ngày vợ tôi sang Mỹ lại, và cũng đã đến ngày tôi đón mẹ tôi lên ở với tôi, vì lúc ấy chị kế tôi đã được bảo lãnh sang Mỹ, anh tôi thì khó khăn, em gái tôi thì bệnh hoạn, chỉ còn có mỗi mình tôi là mạnh khỏe và có điều kiện, nên tôi phải đưa mẹ tôi về để chăm sóc lúc tuổi già. (TOP)

Kết

Sau khi vợ tôi qua Mỹ lại và chị kế tôi cũng đi, thì ở nhà chỉ còn hai mẹ con tôi thôi, tôi làm những công việc lặt vặt như khách hàng đặt làm phông chữ, hoặc vẽ đôi ba cái poster cũng vẫn kiếm tiền lai rai được, ngày ngày đi chợ về lo cơm nước cho hai mẹ con, mỗi tuần hai đêm đi tập hát ca đoàn. Tôi phải gắn cái camera trong nhà để lỡ tôi đi chợ hoặc đi đâu cũng biết mẹ mình đang làm gì ở nhà, có gì thì chạy về ngay cho kịp, ngày tháng cứ thế mà trôi qua. Lúc này vợ chồng Hạnh Ẩn đã xây dựng lại thành một ngôi nhà khang trang bề thế lắm, thỉnh thoảng tôi cũng chạy qua thăm con thăm cháu, rồi lúc thì ghé nhà Toàn, lúc thì ghé nhà Khoa, cuộc sống tuổi già như vậy thì quá sung sướng rồi.

Lúc ấy thì nhờ có Hanoibooks tái bản nên hàng ngày tôi cũng có việc để làm, tôi chỉnh sửa lại các bản thảo Hesman 159 tập và Siêu nhân Việt Nam 52 tập đã được các bạn trong group scan lại và gởi ra cho họ từng phần một, họ cũng thanh toán từng phần một, được bao nhiêu thì tôi gom góp lại nhập vào tiền của vợ tôi, vì tôi không muốn nàng về đây mà lại xài tiền bên Mỹ, những đồng tiền khó khăn lắm mới kiếm được, và tôi cũng mừng là từ ngày tôi rời nước Mỹ cuối năm 2012 đến nay, mọi chi phí sinh hoạt các thứ bên này vẫn là tiền của gia đình thu được từ bên này chứ chưa phải đổi tiền đô của vợ tôi, bởi đó là trách nhiệm của mình, tiền của vợ tôi kiếm được muốn sắm sửa hoặc đi làm từ thiện gì cũng được theo ý nàng thôi, chứ ăn xài các thứ đều không phải đụng đến công sức của nàng.

Năm đó thì bé Vân cho gia đình biết tin mừng là Vân đã quen với anh họ của Trinh, bạn nó ở bên Mỹ, cháu ấy tên là Thiện, đang ở Việt Nam, Thiện lo phụ cha của mình quản lý một công ty dịch vụ xe khách tại quận 4 vì cha của Thiện bị mù. Cả hai đã tìm hiểu nhau lâu rồi và quyết định đi đến hôn nhân, nên cuối năm Vân và vợ tôi sẽ về lo chuyện hôn nhân cho nó. Vì cha của Thiện bị mù từ lúc 18 tuổi, nên ông không thấy được những đổi thay về xã hội và tôn giáo, cho nên Thiện chưa được gia đình đồng ý cho theo đạo công giáo, vì vậy nếu thành hôn thì hai đứa sẽ làm phép chuẩn. Lúc ấy giáo hội cũng đã mở rộng cho phép việc hôn nhân khác đạo nên chúng tôi cũng yên tâm. Vân và vợ tôi về Việt Nam thì ba hôm sau gia đình của Thiện qua nói chuyện và định ngày cưới, cũng như chấp thuận cho Thiện đi học giáo lý hôn nhân và làm phép cưới ở nhà thờ. Trong lúc hai đứa đi học lớp giáo lý hôn nhân thì chúng tôi lên Tòa Giám mục xin giấy phép chuẩn khác đạo cho cháu, cũng dễ dàng thôi chứ không khó khăn gì. Tuy là chuẩn khác đạo nhưng thánh lễ vẫn y hệt như người công giáo vậy, chỉ khác là Thiện chưa được rước lễ mà thôi.

Sau 3 tháng thì các cháu học xong giáo lý, lễ cưới diễn ra ở nhà thờ Phú Hạnh với sự tham dự của mẹ tôi, bác Sơn và gia đình tôi cùng gia đình bên nhà trai, mọi sự đều diễn ra tốt đẹp. Vợ chồng Phúc từ bên Úc về cùng các con cháu ở đây đầy đủ mặt. Qua hôm sau, đúng ngày Tết dương lịch năm 2020 thì rước dâu, trước mặt hai họ, chúng tôi giao chìa khóa tặng nguyên căn nhà mặt tiền ở Ngãi Giao của chúng tôi trước đây cho hai con, bởi giàu út ăn nghèo út chịu mà. Tối hôm đó, chúng tôi tổ chức tiệc chung cả hai bên tại nhà hàng. Hai đứa từ nay đã thành vợ chồng. Cả năm đứa con của tôi cũng đã thành gia thất cùng bạn đời của mình xây dựng hạnh phúc. Thật không còn niềm vui nào hơn, bạn bè ai cũng mừng cho tôi vì họ chỉ một hai con thôi mà lo cho chúng nó chưa xong, vậy mà tôi 5 đứa vẫn chu toàn cả năm. Vợ chồng tôi bây giờ quá sung sướng, không còn vướng bận lo lắng gì cả.

Tết năm đó cả nhà quay về nhà mẹ tôi ăn tết rồi sau đó đi chơi biển, mang cả mẹ tôi đi theo, đầy đủ mặt các con các cháu, từ 2 người mà nay cả con cái dâu rể cháu chắt tất cả cộng lại lên đến 18 người, như là một hồng phúc Chúa ban vậy. Sau tết thì dù bắt đầu nghe đâu đang dịch covid, nhưng bé Vân phải chia tay chồng sang bên đó lại vì có công việc cần gấp. Vợ tôi ở lại đây cùng tôi vì các chuyến bay bị hủy vì dịch covid lan tràn. Những tháng sau đó, mặc dù đang dịch nhưng các cậu dì bên ấy thấy sức khỏe mợ tôi yếu nên cứ hối thúc vợ tôi qua mau, rồi những lời trối trăn, những lời lôi kéo làm vợ tôi rối lên cả người, bởi vợ tôi thương mợ tôi lắm, giúp mợ tôi bán buôn từ nhỏ nên thân thiết với mợ tôi hơn các cậu dì kia. Từ ngày cậu tôi qua đời năm 2015 thì nhà trống vắng hơn, các cậu dì ai nấy đều đi làm nên mợ tôi làm như sắp chết tới nơi, gọi vợ tôi qua cho bằng được. Không cầm lòng nổi nên vợ tôi đành phải chấp nhận mua vé giá cao để qua lại bên Mỹ, đến nơi thì thấy mợ tôi cũng không có gì nghiêm trọng lắm, nhưng phải ở lại thôi vì lúc ấy mua vé về Việt Nam không còn được nữa, dịch bệnh bùng phát khắp nơi khiến tết năm 2021 gia đình tôi vẫn không đoàn tụ được. Thôi thì phó mặc tất cả cho Chúa vậy.

Qua tết thì Phúc và Vân hai đứa hùn lại mua cho tôi chiếc Air Blade mới tinh, tôi trả lại cho Khoa chiếc môtô vì không dùng đến nữa. Lúc ấy tuy là mùa dịch, nhưng việc tái bản Hesman và Siêu nhân Việt Nam vẫn đang tiếp tục dẫu có chậm hơn trước, nhưng nhờ đó mà tôi gom lại được 300 triệu đưa cho bé Phúc mượn để nó mua thêm nhà ở Việt Nam. So với lúc bán rẫy, qua bao năm thì số vốn chúng tôi vẫn còn đủ đó, lại còn chắt góp dành dụm từ Hesman và các thứ lặt vặt của tôi để đưa cho bé Phúc, lại còn có tiền đi hành hương Israel sau khi đã ăn xài các thứ, cho nên tôi nói với vợ mình là đâu cần ôm khư khư cái rẫy, không có nó gia đình mình vẫn sống vui vẻ mà không phải lo đến tiền bạc, bây giờ 5 đứa con mình đã lo xong xuôi, mai đây nếu anh và em già đi, mẹ qua đời rồi, còn sống thì hai đứa mình ở với nhau, nếu một trong hai chúng ta về với Chúa trước, thì người còn lại sẽ vào ở trong Nhà dưỡng lão sống để có động lực cho các con các cháu cuối tuần vào thăm, chứ không ở với đứa nào cả, vì chúng nó bận phải đi làm. Các con tôi đều không chịu, nhưng tôi nói có phải các con bỏ rơi ba má đâu, ba má tự mình muốn vậy để các con đỡ cực, ba má có chỗ nương náu bên Chúa trong nhà thờ Dưỡng lão, chi phí thì đã có tiền lãi và tiền cho thuê ngôi nhà chung cư là ba má đủ sống rồi, sau khi ba má qua đời hết thì để lại ngôi nhà cho cả năm anh em.

Ngày tháng cứ trôi và tôi vẫn công việc mình bên mẹ già, chỉ mong sao Chúa ban cho bình yên là được, bởi nhìn lại quãng đời tôi đã đi qua, vinh quang có, tủi nhục có, đau buồn có, nhưng rõ ràng tất cả những thứ đó gộp lại chính là món quà mang tên Hạnh Phúc mà Chúa đã ban cho gia đình tôi, để hôm nay tôi vẫn còn đủ trí nhớ và đầu óc viết lại nhưng dòng hồi ký này, hầu như chỉ muốn chứng minh một điều duy nhất: Có Chúa quan phòng, chúng ta sẽ vượt qua tất cả. (TOP)

Viết xong ngày 01/08/2021


Thank you!
Thương tặng Vợ tôi và các con các cháu trong gia đình.

(TOP)